Nhân dân Nam Bộ vùng lên đấu tranh trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (Tranh vẽ- Ảnh TLBTLSQG)
I. BỐI
CẢNH LỊCH SỬ, DIỄN BIẾN, KẾT QUẢ CUỘC KHỞI NGHĨA NAM KỲ
1. Bối cảnh lịch sử
Tháng
9/1939, Chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ. Tháng 6/1940, Pháp
đầu hàng phát xít Đức. Lợi dụng cơ hội này, cuối tháng 9/1940, phát xít Nhật
kéo quân vào Đông Dương, từ đây Nhân dân ta lâm vào tình thế “một cổ hai
tròng”. Tháng 11/1940, bọn quân phiệt Thái Lan theo lệnh phát xít Nhật
tiến đánh Campuchia. Thực dân Pháp bắt lính Nam Bộ ra trận làm bia đỡ đạn
cho chúng. Căm thù thực dân Pháp và được cổ vũ bởi tiếng súng khởi nghĩa Bắc
Sơn, Nhân dân Nam Bộ sục sôi tranh đấu.
Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Ðảng lần thứ bảy (khóa I) từ ngày 6 đến ngày
8/11/1939 tại Bà Ðiểm (Hóc Môn, Gia Ðịnh) nhận định: Nhật sẽ xâm
chiếm Đông Dương và Pháp sẽ đầu hàng Nhật, cách mạng Đông Dương sẽ bùng nổ; do
vậy, phải đoàn kết thực hiện bằng được nhiệm vụ chính cốt là đánh đổ đế quốc,
giải phóng dân tộc; chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế
Đông Dương, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp, giai cấp, dân tộc và các cá nhân
yêu nước.
Tinh thần
Nghị quyết đã sớm đi vào đảng viên, quần chúng. Phong trào cách mạng ở Nam
Kỳ ngày càng phát triển mạnh mẽ, liên tiếp diễn ra nhiều cuộc mít
tinh, biểu tình, đấu tranh. Đặc biệt là các cuộc đấu tranh chống bắt lính diễn
ra mạnh mẽ kể từ khi thực dân Pháp bắt thêm lính Việt Nam đem sang chiến trường
biên giới Ai Lao (Lào) - Cao Miên (Campuchia) để chống Xiêm (Thái Lan). Khí thế chiến đấu diễn ra hầu
khắp Nam Kỳ, đặc biệt là ở Mỹ Tho, Vĩnh Long, Long Xuyên, Chợ Lớn, Gia Định,
Tân An, Vũng Tàu, Trà Vinh...
Trên cơ
sở đó, tháng 3/1940, Ban Thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ do đồng chí Võ Văn Tần làm
Bí thư thảo ra Đề cương chuẩn bị bạo
động. Từ tháng 7 đến tháng 10/1940, Ðảng bộ Nam Kỳ liên tiếp tổ chức nhiều
cuộc họp để bàn chủ trương và gấp rút lãnh đạo Nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa vũ
trang, thông qua Đề cương; chủ
trương thành lập Ban Chỉ huy và Ban Quân sự các cấp; xác định hình thức chính
quyền, quốc kỳ, khẩu hiệu; vạch các chính sách đối với Nhân dân…
Ðến giữa
tháng 11/1940, trước tinh thần đấu tranh của quần chúng, đặc biệt là tinh
thần phản chiến của binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp, Xứ ủy Nam Kỳ quyết
định phát động toàn Nam Kỳ nổi dậy đánh đổ chính quyền thuộc địa, giành chính
quyền về tay Nhân dân. Ngày 21/11/1940, Thường vụ Xứ ủy ra thông báo cho các
cấp bộ Đảng nhất loạt phát động Nhân dân nổi dậy vào lúc 24 giờ ngày
22/11/1940. Thời điểm hành động nhất loạt ở các tỉnh Nam Kỳ là lúc 0 giờ
ngày 22, rạng 23/11/1940, hiệu lệnh là đèn Sài Gòn tắt hoặc có tiếng súng nổ.
Hội nghị
Trung ương Ðảng họp tại Ðình Bảng (Bắc Ninh) từ ngày 6 đến 9/11/1940 nhận
định điều kiện khởi nghĩa ở Nam Kỳ và trong cả nước chưa chín muồi, đề nghị Xứ
ủy Nam Kỳ chưa nên phát động khởi nghĩa. Trung ương phái đồng chí Phan Đăng
Lưu trở về truyền đạt quyết định của Trung ương cho Xứ ủy Nam Kỳ. Nhưng
khi đồng chí Phan Ðăng Lưu về tới Sài Gòn thì lệnh khởi nghĩa đã ban hành tới
các địa phương không thể thu hồi; một số cán bộ chủ chốt của Xứ ủy đã bị địch
bắt, Cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra theo kế hoạch.
2. Diễn biến, kết quả Cuộc khởi nghĩa
Chỉ trong
một thời gian ngắn kể từ khi Thường vụ Xứ uỷ ra Đề
cương chuẩn bị bạo động (tháng 3/1940), công tác chuẩn bị khởi nghĩa
được triển khai rất khẩn trương; các tổ chức phản đế xuất hiện nhiều nơi, nhất
là ở vùng nông thôn. Mít tinh, biểu tình liên tiếp nổ ra. Nhiều nơi địch
đến đánh phá, Nhân dân nổi trống mõ, uy hiếp địch, bảo vệ cán bộ. Các đội
tự vệ, du kích phát triển ngay trong những xí nghiệp lớn ở Sài Gòn như Ba
Son, nhà máy đèn Chợ Quán, trường Bách Nghệ... Ở nông thôn, phần lớn
các xã đều có từ một tiểu đội đến một trung đội du kích. Các cơ sở sản
xuất vũ khí làm việc suốt ngày đêm. Nhân dân quyên góp kim khí để đúc
đạn; xuất hiện những cơ sở làm bom, lựu đạn xi măng, súng thô sơ ở Móp
Xanh (Tân An), Bà U (Mỹ Tho), chùa Hòa Thượng Đồng (Rạch Giá)… Phong trào
chống chiến tranh, chống bắt lính với khẩu hiệu “không một đồng xu, không một
người lính cho đế quốc chiến tranh” ngày càng lan rộng. Công tác binh vận
được tổ chức ráo riết, phần lớn trong số 15.000 binh lính người Việt trong quân
đội Pháp đóng ở Sài Gòn sẵn sàng phối hợp nổi dậy.
Tuy
nhiên, vì kế hoạch khởi nghĩa bị địch biết trước nên chúng lùng sục bắt bớ, giữ
binh lính người Việt ở trong trại, tước vũ khí của binh lính phản chiến. Dù
vậy, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vẫn diễn ra theo đúng kế hoạch vào đêm 22 rạng sáng
23/11/1940.
Khởi
nghĩa bùng nổ đồng loạt tại hầu hết các tỉnh Nam Kỳ với tinh thần quyết
liệt, mạnh nhất là ở Gia Ðịnh, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long... Lực lượng vũ
trang và quần chúng đã nổi dậy tiến công địch ở các xã, tập kích nhiều đồn bốt,
tiến đánh một số quận lỵ, phá hỏng nhiều cầu, đường... Tại một số xã,
quận, chính quyền địch hoang mang, tan rã, chính quyền cách mạng được thành
lập. Lần đầu tiên cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở những nơi đã thành lập chính
quyền cách mạng và trong nhiều cuộc biểu tình. Bọn phản cách mạng bị xét xử.
Ruộng, thóc của địa chủ phản động được chia cho dân cày nghèo.
Ở Hóc Môn, dưới sự chỉ huy của đồng chí
Mười Đen - Xứ ủy viên Xứ ủy Nam Kỳ, quân du kích và hàng nghìn đồng bào kéo đến
vây công đồn, chặn đánh địch tiếp viện ở Cầu Bông, giết chết tên Chánh xứ tỉnh
Tây Ninh, thu được hơn chục súng trường. Do quân của địch kéo đến nhiều, du
kích không chiếm được đồn, tạm rút lên Truông Mít, Tây Ninh.
Tại Chợ Lớn, du kích tập trung ở Đức
Hoà, Trung Quận, Cần Giuộc, mỗi nơi khoảng 400 đến 500 người. Ở Đức Hoà, quân
du kích đánh tan toán lính địch tại Giồng Đa, giết chết tên đầu sỏ phản động.
Tại Trung Quận, du kích cùng Nhân dân diệt tề, trừ gian, lập chính quyền cách
mạng ở các xã dọc hai bên đường xe lửa. Ở Bến Lức, quân du kích dùng mưu dụ
lính ra khỏi đồn, xông vào chiếm đồn lấy súng. Tại Cần Giuộc, du kích do đồng
chí Nguyễn Thị Bẩy, Tỉnh uỷ viên chỉ huy, cùng Nhân dân đánh chiếm trụ sở hội
tề, tịch thu sổ sách, bằng triện, lập chính quyền cách mạng ở các xã Phước Lai,
Phước Vĩnh Đông, Tân Lập, Long Hậu, Long Đức.
Tại Vĩnh Long, quân du kích Vũng
Liêm đánh chiếm quận lỵ, công đồn. Quân địch hoảng sợ bỏ chạy, nghĩa quân lập
Ủy ban cách mạng và giữ được đồn trong ba ngày.
Tại Tân An và Mỹ
Tho, các xã thuộc hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông và hai bên bờ sông Vàm Cỏ
Tây, chính quyền đều về tay Nhân dân. Hàng nghìn du kích dưới sự lãnh đạo
của Bí thư Tỉnh uỷ Mỹ Tho đã tiến đánh nhiều nơi, mở rộng vùng giải phóng. Chỉ
tính riêng hai quận Châu Thành và Cai Lậy, ta đã giải phóng được 54/56 xã. Lo
sợ trước phong trào nổi dậy ở Mỹ Tho, ngày 14/12/1940 địch phải dùng thủy, lục,
không quân tiến công nhưng mãi đến 14/1/1941 chúng mới chiếm lại được các đồn,
bốt. Trong tình thế đó, quân du kích tạm rút vào Đồng Tháp Mười. Mỹ Tho là nơi
giữ được chính quyền lâu nhất.
Ngay từ
khi được tin Nam Kỳ khởi nghĩa, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra thông báo
khẩn cấp, chỉ thị cho các địa phương “chia lửa” với Nam Kỳ. Từ việc rải truyền
đơn, bãi khóa, bãi thị đến việc phát động du kích, nếu có điều kiện phá đường,
cầu cống ngăn quân thù đàn áp. Nhưng thực dân Pháp khủng bố khốc liệt, càn
quét các vùng khởi nghĩa, tiêu diệt chính quyền cách mạng, cho máy bay dội
bom xuống làng mạc, thôn xóm. Tính từ ngày 22/11 đến ngày 31/12/1940, thực
dân Pháp gây ra hơn 5.000 vụ bắt bớ; hàng ngàn người bị xử tử, tù đày, tra tấn
vô cùng tàn bạo.
Tháng
12/1940, Xứ ủy Nam Kỳ họp ở Bà Quẹo (Gia Định) quyết định rút lui cuộc khởi
nghĩa để tránh tổn thất, đưa lực lượng còn lại xây dựng căn cứ U Minh và Đồng
Tháp Mười.
Cuộc khởi
nghĩa Nam Kỳ bị dập tắt. Thực dân Pháp nhân cơ hội này xử bắn nhiều đồng chí
cán bộ kiên trung của Ðảng bị bắt từ trước khởi nghĩa, như: Nguyễn Văn Cừ, Hà
Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Nguyễn Hữu Tiến, Phan Ðăng Lưu...
II. Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Ý nghĩa lịch sử
Diễn ra
trong một thời gian ngắn nhưng khởi nghĩa Nam Kỳ là cuộc khởi nghĩa vũ trang có
phạm vi rộng nhất và mức độ quyết liệt nhất kể từ khi thực dân Pháp xâm chiếm
lục tỉnh Nam Kỳ năm 1867 đến thời điểm đó. Tuy thất bại nhưng khởi nghĩa
Nam Kỳ có ý nghĩa lịch sử sâu sắc đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước của Nhân dân ta:
- Cùng
với khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa Nam Kỳ “là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc
khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu tranh đấu bằng võ lực của các dân tộc ở một
nước Ðông Dương”[1].
Cuộc khởi nghĩa đã thể hiện sức mạnh quật khởi, lòng tin tưởng và sẵn sàng hy
sinh của Nhân dân các tỉnh Nam Bộ trong cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập
dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Chính vì lẽ đó, ngày 14/11/1948, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra Sắc lệnh 163-SL tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhất cho Đội
quân khởi nghĩa Nam Bộ năm 1940. Đó là sự khắc ghi của dân tộc đối với công lao
và sự hy sinh của quân và dân Nam Kỳ.
- Từ cuộc
khởi nghĩa Nam Kỳ, nhiều cán bộ của Đảng được rèn luyện, thử thách. Sau khởi
nghĩa, một đội ngũ cán bộ, đảng viên trung thành với lý tưởng của Ðảng, gương
mẫu chiến đấu hy sinh vì quyền lợi của dân tộc, của Nhân dân đã trưởng thành và
đảm đương những trọng trách mà Đảng ta giao phó về sau. Từ đây, có hàng vạn
quần chúng Nhân dân yêu nước được thử thách trong đấu tranh, tiếp tục đi theo
Ðảng thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc tiến tới giành thắng lợi Cách
mạng Tháng Tám 1945.
- Cuộc
khởi nghĩa Nam Kỳ mang tính chất một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, tính
nhân dân rộng rãi và sâu sắc. Đó là minh chứng sinh động cho chủ trương đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu của Ðảng với phương pháp đấu tranh vũ
lực là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo. Ðồng thời, khởi nghĩa Nam Kỳ cũng là cơ
sở thực tiễn để Đảng ta hoàn thiện con đường chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành
chính quyền. Từ kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa ở Bắc Sơn, Nam Kỳ, binh biến Ðô
Lương, Đảng đã có những bước đi cẩn trọng, chu đáo trong đánh giá, xác định
thời cơ, chuẩn bị lực lượng... đi tới giải phóng toàn dân tộc.
- Với
cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, từ trong quá trình chuẩn bị và diễn ra, lần đầu thiết
chế “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” được đề cập trong truyền đơn rải ở
thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và tiêu ngữ “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quốc” được
viết trên các băng zôn treo trước trụ sở các ủy ban cách mạng ở Long Hưng,
Vĩnh Kim (Mỹ Tho). Lá cờ đỏ sao vàng năm cánh xuất hiện trong khởi nghĩa Nam Kỳ
đã trở thành biểu tượng của khối đại đoàn kết toàn dân, biểu tượng của tinh
thần và ý chí đấu tranh cách mạng của Nhân dân. Cờ đỏ sao vàng năm cánh sau đó
đã được Ðảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chọn làm biểu tượng của Mặt trận Việt
Nam độc lập đồng minh và đến ngày 9/11/1946 được ghi chính thức trong Hiến
pháp, thông qua tại kỳ họp Quốc hội thứ hai (khóa I).
2. Bài học kinh nghiệm
Khởi
nghĩa Nam Kỳ là thực tiễn sinh động về phong trào đấu tranh cách mạng của nhân
dân và để lại những bài học quý báu, đó là:
Một là, bài
học về cụ thể hóa đường lối của Đảng phù hợp với thực tiễn địa phương, phải đặt
địa phương trong mối tương quan với cả nước và có sự phối hợp khởi nghĩa giữa
các địa phương trong cả nước. Một trong những nguyên nhân thất bại của cuộc
khởi nghĩa Nam Kỳ là vì chưa được đặt trong sức mạnh chung của toàn quốc.
Hai là, bài
học về công tác chuẩn bị các điều kiện cần và đủ cho một cuộc khởi nghĩa nổ ra có
thể giành được thắng lợi, đặc biệt là chuẩn bị về lực lượng chính trị, xây dựng
lực lượng vũ trang và khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh du kích, xây dựng và
kiểm tra kế hoạch, phát hiệu lệnh khởi nghĩa.
Ba là, bài học
về xây dựng đội quân chủ lực, xác định rõ các lực lượng phối hợp của cuộc khởi
nghĩa và đánh giá đúng vai trò của các lực lượng. Lực lượng vũ trang của binh
lính là quan trọng nhưng quyết định vẫn là quần chúng công nông.
Bốn là, bài
học về việc giữ vững sự gắn bó máu thịt giữa Đảng và quần chúng; không ngừng
xây dựng lực lượng cách mạng trong quần chúng; khơi dậy và nhân lên sức mạnh vĩ
đại từ sự đồng tâm, hiệp lực của quần chúng.
Năm là, bài
học về tính khoa học của kế hoạch lãnh đạo khi tiến công và thoái thủ; dự trù
các phương án thắng - thua và khả năng giải quyết nếu khởi nghĩa thất bại; kế
hoạch rút lui bảo toàn cơ sở và lực lượng.
III. PHÁT HUY TINH THẦN NAM KỲ KHỞI NGHĨA TRONG CÔNG CUỘC
XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC GIAI ĐOAN HIỆN NAY
Kỷ niệm
80 năm Ngày Nam Kỳ khởi nghĩa diễn ra vào thời điểm toàn Ðảng, toàn quân, toàn
dân ta đang thi đua lập thành tích chào mừng Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Ðảng; phát huy tinh thần và những bài học kinh nghiệm của Cuộc khởi
nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, các
cấp, các ngành cần nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của đất
nước, trọng tâm là:
- Tập
trung xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, nhất là không ngừng nâng cao trí tuệ, năng lực hoạch định
đường lối, chủ trương, chiến lược cách mạng khoa học và sáng tạo của Đảng, đáp
ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng giai đoạn đổi mới. Nghiên cứu, phân
tích, nhận định tình hình thế giới và trong nước, nắm chắc, tận dụng thời cơ
đưa đất nước vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Không
ngừng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân thành nguồn sức mạnh và động lực to
lớn để tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi
mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh tổ chức các phong trào thi đua
yêu nước gắn với thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương và cả nước trong từng thời kỳ nhằm tích cực phát huy vai trò
của quần chúng Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Tăng
cường củng cố, xây dựng lực lượng quốc phòng - an ninh vững chắc, trong đó chú
trọng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực
lượng; đồng thời, chú trọng công tác bảo vệ bí mật Nhà nước, kịp thời phát
hiện, phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn, vô hiệu hóa các hoạt động phá hoại, đánh
cắp thông tin, bí mật nhà Nước của các thế lực thù địch, phản động, gây nguy
hại đến an ninh quốc gia.
- Nâng
cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng; đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chạy
chức, chạy quyền; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tổ chức Đảng thực sự
tiên phong, gương mẫu, trước hết là người đứng đầu; làm cho Nhân dân tin
yêu và gắn bó máu thịt với Đảng. Đồng thời, đẩy mạnh phong trào tự soi, tự
sửa theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để nâng cao chuẩn mực đạo
đức, ý thức trách nhiệm, tác phong công tác cho cán bộ, đảng
viên.
[1].Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 109.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG