BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
KHÓA XII
*
|
|
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Hà Nội, ngày 12 tháng 10 năm 2020
|
DỰ THẢO BÁO CÁO CHÍNH TRỊ CỦA
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHÓA XII
TẠI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ
XIII CỦA ĐẢNG
-----
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến rất nhanh, phức
tạp, khó lường; đất nước đang đứng trước nhiều thời cơ, thuận lợi và nhiều khó
khăn, thách thức đan xen, nhiều vấn đề mới đặt ra phải giải quyết; cán bộ, đảng
viên, nhân dân đặt kỳ vọng vào những quyết sách đúng đắn, mạnh mẽ của Đảng để
phát triển đất nước ta nhanh và bền vững hơn. Đại hội được tổ chức vào thời
điểm toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục
tiêu và nhiệm vụ được xác định trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; đất nước
trải qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Đại hội XIII
có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII gắn với đánh giá
tổng quát tiến trình đổi mới; quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5, 10
năm tới và tầm nhìn đến năm 2045; đánh giá việc thi hành Điều lệ Đảng khoá XII;
kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá XII; bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII. Đại hội
được tiến hành theo phương châm: Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo -
Phát triển, với chủ đề: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý
chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục
đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước
ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
I- KẾT QUẢ THỰC HIỆN
NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XII VÀ CƠ ĐỒ ĐẤT NƯỚC SAU 35 NĂM ĐỔI MỚI
1. Đánh giá kết quả
thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, nguyên nhân và kinh nghiệm
Năm năm qua, nắm bắt thời cơ, thuận lợi; vượt qua thách
thức, khó khăn, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều
thành tựu rất quan trọng.
Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao; chất
lượng tăng trưởng được cải thiện, quy mô và tiềm
lực nền kinh tế tăng lên
Nhận thức về nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính
sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị
trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị
trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Nhiều
loại hàng hoá, dịch vụ công ích, dịch vụ sự nghiệp công được sử dụng, cung ứng theo
cơ chế giá thị trường; nhiều rào cản tham gia thị trường được dỡ bỏ; môi trường
đầu tư kinh doanh được cải thiện rõ rệt, khởi nghiệp sáng tạo và phát triển
doanh nghiệp khá sôi động; doanh nghiệp nhà nước từng bước được sắp xếp, tổ
chức lại có hiệu quả hơn; kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định là một động lực
quan trọng của nền kinh tế; kinh tế tập thể từng bước đổi mới gắn với cơ chế thị trường; kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài phát triển nhanh, là bộ phận quan trọng của nền kinh tế
nước ta.
So với nhiệm kỳ trước, kinh tế
chuyển biến tích cực, toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm
phát luôn được kiểm soát ở mức thấp, mặc dù năm cuối nhiệm kỳ bị ảnh hưởng nặng
nề của đại dịch Covid-19 nhưng tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016
- 2020 vẫn đạt khoảng 5,9%/năm. Quy mô
nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người
tăng lên (năm 2020, GDP ước đạt 268,4 tỉ USD và thu nhập bình quân đầu
người ước đạt 2.750 USD/người/năm). Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng
suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011 - 2015 lên 5,8%/năm giai đoạn
2016 - 2020.
Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi
mới mô hình tăng trưởng bước đầu đạt những kết quả quan trọng; các cân đối lớn
của nền kinh tế được cải thiện đáng kể; nợ công giảm, nợ xấu được kiểm soát. Cơ
cấu các ngành kinh tế chuyển dịch tích cực, tỉ
trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm, tỉ trọng khu vực công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng lên. Công nghiệp chế biến, chế tạo phát triển
nhanh; công nghiệp hỗ trợ có bước phát triển, góp phần nâng cao tỉ lệ nội địa
hoá và giá trị gia tăng của sản phẩm. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ tiếp tục tăng; du lịch phát triển nhanh; nông nghiệp chuyển mạnh sang ứng
dụng công nghệ cao, sản xuất hàng hoá, nâng cao chất lượng và hiệu quả; chương
trình xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả quan trọng làm thay đổi bộ mặt
nông thôn và đời sống nông dân; phát triển kinh tế số bước đầu được chú trọng.
Hội nhập kinh tế quốc tế phát triển
sâu, rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, ký kết nhiều hiệp định
thương mại song phương, đa phương thế hệ mới; xuất, nhập khẩu, thu hút vốn đầu
tư nước ngoài tăng mạnh, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế.
Giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ tiếp tục được đổi mới và có bước phát triển
Chủ trương về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo được tích cực triển khai, bước đầu có hiệu quả. Mạng
lưới cơ sở giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng về quy mô. Giáo dục và đào
tạo ở những vùng khó khăn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số được chú trọng hơn.
Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới được ban hành và đang triển khai theo lộ trình; phương pháp giảng dạy và
học tập có bước đổi mới. Giáo dục mầm non đạt chuẩn phổ cập cho trẻ em 5 tuổi
và giáo dục phổ thông có chuyển biến tích cực, được thế giới công nhận. Công
tác thi, kiểm tra và đánh giá kết quả thực chất, hiệu quả hơn. Quản lý, quản
trị đại học có bước đổi mới, chất lượng giáo dục đại học từng bước được nâng
lên. Giáo dục nghề nghiệp có nhiều chuyển biến. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chú trọng cả về số lượng và chất lượng. Chi
đầu tư cho giáo dục và xã hội hoá giáo dục được tăng cường. Cơ chế, chính sách
tài chính cho giáo dục và đào tạo từng bước đổi mới. Cơ chế tự chủ, cơ chế cung
ứng dịch vụ công trong giáo dục và đào tạo được thể chế hoá và đạt kết quả bước
đầu. Hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng.
Khoa học và công nghệ từng bước
khẳng định vai trò động lực trong phát triển kinh tế - xã hội. Tiềm lực khoa
học và công nghệ của đất nước được tăng cường. Khoa học tự nhiên, khoa học kỹ
thuật và công nghệ đã đóng góp tích cực hơn trong nâng cao năng suất lao động, chất
lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, thích
ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận
chính trị góp phần tích cực cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính
sách; bảo vệ, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng, phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội, con người Việt Nam. Hiệu quả hoạt động khoa học và công
nghệ được nâng lên, tạo chuyển biến tích cực cho hoạt động đổi mới và khởi
nghiệp sáng tạo. Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có bước đổi mới. Một
số cơ chế, chính sách về phát triển, quản lý khoa học và công nghệ bước đầu
phát huy tác dụng, nhất là cơ chế, chính sách quản lý nguồn vốn đầu tư, tài
chính.
Các lĩnh vực văn hoá, xã
hội, phát triển con người; quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng
với biến đổi khí hậu đạt nhiều kết quả quan trọng
Các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm
văn hoá phát triển ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu mới, nhiều mặt của đời
sống xã hội. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống và di sản văn hoá được kế thừa,
bảo tồn và phát huy. Văn hoá trong chính trị và trong kinh doanh bước đầu được
coi trọng và phát huy hiệu quả tích cực. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội
nhập quốc tế về văn hoá khởi sắc. Phát
triển toàn diện con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc phê phán, đấu tranh, đẩy lùi cái
xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây hại đến văn
hoá, lối sống con người được chú trọng.
Từng bước hoàn thiện đồng bộ và thực
hiện có hiệu quả chính sách xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo; phát triển
thị trường lao động, hướng tới xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và
tiến bộ, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế. Bảo đảm cơ bản an sinh xã hội, quan
tâm hơn phúc lợi xã hội cho người dân; thực hiện ngày càng tốt hơn chính sách
đối với người có công; tiếp tục cải thiện chính sách tiền lương; mở rộng bảo hiểm
xã hội (tỉ lệ bảo hiểm y tế đạt trên 90%). Hệ thống tổ chức y tế tiếp tục được
kiện toàn. Quy mô, năng lực, chất lượng y tế dự phòng, khám, chữa bệnh, phòng, chống
dịch, chăm sóc sức khoẻ nhân dân có bước phát triển, tiếp cận được nhiều kỹ
thuật tiên tiến trên thế giới. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; tỉ lệ
hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm còn dưới 3%; nhà ở xã hội được quan tâm;
đã hoàn thành mục tiêu Thiên niên kỷ và chuyển sang thực hiện mục tiêu phát
triển bền vững.
Hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích
ứng với biến đổi khí hậu được tiếp tục hoàn thiện. Tích cực triển khai điều
tra cơ bản, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, giá trị kinh tế các nguồn tài
nguyên. Kiểm soát chặt chẽ hơn các hoạt động khai thác tài nguyên, hạn chế xuất
khẩu khoáng sản thô. Tăng cường đầu tư phát triển năng lượng tái tạo. Công tác
kiểm tra, giám sát và kiểm soát về môi trường được tăng cường, xử lý nghiêm
theo pháp luật một số vụ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Chú trọng chất
lượng môi trường sống, cơ bản bảo đảm cung cấp nước sạch, dịch vụ y tế, dịch vụ
vệ sinh môi trường cho người dân, đặc biệt là ở các đô thị, khu công nghiệp, khu
vực nông thôn. Chủ động triển khai thực hiện có hiệu quả bước đầu Chương trình
quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai. Nâng cao năng
lực thích ứng, bảo đảm sinh kế cho người dân ở những vùng có nguy cơ bị ảnh
hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực bảo vệ
môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu được đẩy mạnh.
Chính trị - xã hội ổn
định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật
Tiếp tục giữ vững và tăng cường sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống
nhất của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang. Xây dựng
Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng có mặt tiến nhanh lên hiện
đại, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên
trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và
chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật
tự, an toàn xã hội; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển
đất nước. Tư duy về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc có bước phát triển mới
và ngày càng hoàn thiện. Sự kết hợp giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại ngày
càng chặt chẽ, hiệu quả. Chủ động phát hiện, có các phương án, đối sách ngăn
ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa và kiểm soát tốt các nhân
tố có thể gây bất lợi đột biến. Tiềm lực quốc phòng và an ninh được tăng cường;
thế trận lòng dân được chú trọng; thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an
ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm được củng cố.
Bước đầu hình thành hệ thống pháp luật và cơ sở vật chất cho việc bảo đảm an
ninh mạng, an toàn thông tin quốc gia, không gian mạng quốc gia. Ban hành và
thực hiện Chiến lược an ninh mạng quốc gia.
Kết hợp có hiệu quả quốc phòng, an
ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức và giải quyết các mối quan hệ với đối
tác, đối tượng có bước chuyển quan trọng. Đã ban hành và triển khai đồng bộ các
chiến lược quan trọng như Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược
bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia và Chiến lược bảo
vệ Tổ quốc trên không gian mạng v.v... Đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế về
quốc phòng, an ninh. Chủ động đấu tranh kịp thời, hiệu quả, từng bước đẩy lùi
các loại tội phạm và ứng phó kịp thời với các mối đe doạ an ninh truyền thống
và an ninh phi truyền thống; làm thất bại âm mưu và hoạt động "diễn biến
hoà bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động.
Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo khung khổ quan hệ ổn định và bền
vững với các đối tác. Chủ động tham gia xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực
trong các thể chế đa phương khu vực và toàn cầu; xử lý đúng đắn, hiệu quả quan
hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác chiến lược, đối tác toàn
diện và các đối tác khác. Đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân
dân được triển khai đồng bộ và toàn diện. Tiếp tục hoàn thiện và thực thi có
hiệu quả cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại; tăng cường công tác
bảo hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài. Hội nhập quốc tế tiếp
tục được triển khai chủ động, tích cực, tạo không gian quan hệ rộng mở, tranh
thủ được sự hợp tác, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế. Vị thế, uy tín, vai trò của
Việt Nam trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao.
Sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc được củng cố; dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy
Ban hành và thực hiện có hiệu quả
nhiều chủ trương, chính sách pháp luật nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, vận động đông đảo
nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phát huy ngày càng tốt hơn
vai trò chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội
viên và nhân dân; chủ động tham gia giám sát và phản biện xã hội, làm tốt vai
trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước
và hệ thống chính trị, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất
nước.
Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết
định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền
con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền
công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội. Tăng cường bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân, kiên quyết xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật. Chú trọng thực hiện dân chủ ở cơ sở, công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình. Người đứng đầu ở nhiều cấp uỷ đảng, chính quyền đã tăng cường
tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, giải quyết những bức xúc và nguyện
vọng chính đáng của nhân dân.
Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; tổ
chức bộ máy lập pháp, hành pháp và tư pháp tiếp tục được hoàn thiện
Hệ thống pháp luật được hoàn thiện
một bước cơ bản. Vai trò của pháp luật và thực thi pháp luật ngày càng được chú
trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước và đời sống xã hội. Cơ chế phân
công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển
biến tích cực. Bộ máy nhà nước bước đầu được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả gắn với tinh giản biên chế.
Hoạt động của Quốc hội trong xây
dựng pháp luật, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước có nhiều đổi mới, chất lượng và hiệu quả được nâng cao. Vai trò, trách
nhiệm của đại biểu Quốc hội được thể hiện rõ. Hoạt động của Hội đồng nhân dân các
cấp có nhiều đổi mới. Hoạt động của Chính phủ và các bộ, ngành chủ động, tích
cực, tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô; tháo gỡ các rào cản; phục vụ, hỗ
trợ phát triển. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp trên một số lĩnh vực có
bước đột phá. Tổ chức bộ máy của toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ
quan điều tra, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt
động có tiến bộ, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức và cá nhân; tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công
dân. Tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương được sắp xếp lại theo hướng tinh
gọn; quan tâm xây dựng chính quyền đô thị, chính quyền nông thôn, khẩn trương
triển khai xây dựng chính quyền điện tử.
Công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có
hiệu quả rõ rệt
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư đặc biệt quan tâm đến lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng toàn diện với quyết tâm chính trị
cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt và đạt nhiều kết quả rõ rệt; đề cao trách
nhiệm của cấp uỷ, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là những
người đứng đầu các cấp; phát huy dân chủ; tăng cường đoàn kết thống nhất trong
Đảng; huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sự đồng tình, ủng
hộ của nhân dân, góp phần nâng cao vị thế cầm quyền, khẳng định vai trò lãnh
đạo, đường lối đúng đắn của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Công tác xây dựng Đảng về chính trị được đặc biệt chú trọng. Kiên định những nguyên tắc trong đường lối đổi
mới và trong công tác xây dựng Đảng. Bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, tính
chiến đấu của toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt các cấp từng bước được nâng lên. Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng được tăng cường; công tác bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
được lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, chuyển biến tích cực; nghiên cứu và giáo dục
lý luận chính trị tiếp tục được chú trọng, đổi mới, góp phần tạo sự đoàn kết
nhất trí trong Đảng, đồng thuận trong xã hội. Tư duy lý luận của Đảng có bước
phát triển. Hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, phát triển. Công tác xây dựng Đảng về đạo đức được
đề cao, góp phần rèn luyện phẩm chất đạo đức
cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, "lợi ích
nhóm". Việc triển khai Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh được thực hiện đồng bộ với các quy định của Đảng về
trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao
càng phải gương mẫu.
Công tác xây dựng Đảng về tổ chức được thực hiện với quyết tâm
chính trị cao, tập trung kiện toàn, đổi
mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị có sự chuyển biến tích
cực, rõ nét. Công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng
đảng viên được quan tâm hơn và có chuyển biến tích cực. Công tác cán bộ là "then chốt của then chốt" được đổi mới
mạnh mẽ, đạt một số kết quả quan trọng. Việc chống chạy chức, chạy quyền được
coi trọng, có chuyển biến. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được quan tâm hơn. Rà
soát, sửa đổi, bổ sung các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tổ
chức bộ máy, biên chế; giảm đầu mối, giảm cấp trung gian, giảm số lượng cán bộ
lãnh đạo, giảm biên chế, cơ cấu lại, từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức, giảm chi phí hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động.
Chỉ đạo quyết liệt, tập trung công
tác kiểm tra, giám sát, phòng, chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển
hoá" trong nội bộ. Ngăn chặn, đẩy lùi một bước tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được
đẩy mạnh, có nhiều đổi mới, thực hiện toàn diện, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu quả,
nhất là ở cấp Trung ương; hoạt động của cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp được
tăng cường, ngày càng siết chặt kỷ luật, kỷ cương. Tiếp tục nâng cao nhận thức
về đổi mới công tác dân vận của hệ
thống chính trị, nhất là dân vận chính quyền gắn với công tác xây dựng Đảng về
chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, góp phần tăng cường mối quan hệ mật
thiết của Đảng với nhân dân, phát huy vai trò nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Công tác phòng, chống tham nhũng được lãnh
đạo, chỉ đạo và thực hiện quyết liệt, toàn diện, đi vào chiều sâu, với quyết
tâm chính trị rất cao, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, đạt nhiều kết quả
rất quan trọng, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ. Tham
nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn.
Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được
đổi mới. Ban hành và thực hiện nhiều quy định bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo
của Đảng, đề cao nguyên tắc pháp quyền, phát huy dân chủ, tính chủ động, sáng
tạo và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Đổi mới cách học tập, quán
triệt nghị quyết, coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết
của Đảng. Việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của
Đảng từ Trung ương tới cơ sở có bước tiến bộ. Coi trọng việc phát huy vai trò, trách
nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức
đảng, cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
Tổng quát lại, trong nhiệm kỳ Đại hội XII, toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, thách
thức, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, các nhiệm vụ trọng tâm, đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng.
Trong những năm 2016 - 2019, đất nước tiếp tục phát triển nhanh và khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực,
tạo nhiều dấu ấn nổi bật. Kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng được duy trì ở
mức khá cao; sức cạnh tranh, tiềm lực và quy mô của nền kinh tế được nâng lên.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đặc biệt quan tâm,
đạt nhiều kết quả rõ rệt. Công tác
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí chuyển biến mạnh mẽ, có
bước đột phá, quyết liệt, có hiệu quả, ngày càng đi vào chiều sâu, gắn kết chặt chẽ giữa "xây" và
"chống". Sự thống nhất, phối hợp
đồng bộ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -
xã hội được tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh không
ngừng được củng cố, kiên quyết, kiên trì giữ vững độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ; quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng và hiệu quả; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng
cao. Đặc biệt, trong năm 2020, đại dịch Covid-19 tác động mạnh đến nước ta, gây
ra nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội và sự phát triển của đất nước. Do phát
huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự ưu việt của chế độ xã hội chủ
nghĩa, sự tham gia đồng bộ, quyết liệt của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng, sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân, chúng ta đã từng bước kiểm
soát thành công đại dịch Covid-19; từng bước phục hồi sản xuất kinh doanh; ổn
định đời sống, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và
chế độ xã hội chủ nghĩa; khẳng định bản lĩnh, ý chí, truyền thống tốt đẹp của
nhân dân ta, dân tộc ta.
Những thành tựu đạt được 5 năm qua có nguyên nhân khách quan và chủ quan. Đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta qua nhiều
nhiệm kỳ đại hội, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
của nước ta qua 35 năm đổi mới. Nguyên nhân quan trọng nhất là sự đoàn kết, thống
nhất, sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, có hiệu quả, kịp thời của Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các
cấp uỷ đảng trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII,
giải quyết kịp thời, có hiệu quả nhiều vấn đề
mới nảy sinh trong thực tiễn; sự quản lý, điều hành quyết liệt của Chính
phủ và chính quyền các cấp; sự nỗ lực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động
của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; sự phối hợp đồng bộ của cả hệ thống
chính trị; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; sự nỗ lực của đội ngũ
cán bộ, đảng viên; tinh thần lao động tích cực, sáng tạo, trách nhiệm của nhân
dân; sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu
đạt được, chúng ta cũng còn nhiều hạn chế,
khuyết điểm:
Hoàn thiện thể chế, đổi
mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá
còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản về mô hình tăng trưởng; năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao
Thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập chưa được tháo gỡ. Năng lực
xây dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp và chính sách còn thấp. Môi
trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch. Chưa tạo được
đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát
triển. Thể chế phát triển, điều phối kinh tế vùng chưa được quan tâm và chậm
được cụ thể hoá bằng pháp luật nên liên kết vùng còn lỏng lẻo.
Năng lực và trình độ công nghệ của
nền kinh tế còn thấp. Công nghiệp vẫn chủ yếu gia công, lắp ráp, giá trị gia
tăng không cao; công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, tỉ lệ nội địa hoá thấp, tham
gia vào chuỗi giá trị toàn cầu hiệu quả còn hạn chế; tốc độ tăng trưởng nông
nghiệp chậm lại; chất lượng nhiều dịch vụ thấp.
Nhiều doanh nghiệp nhà nước thực
hiện tái cơ cấu và đổi mới cơ chế quản trị còn chậm; thoái vốn, cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước còn gặp vướng mắc cả về thể chế và tổ chức thực hiện; hiệu
quả sản xuất, kinh doanh còn thấp; tình trạng nợ, thua lỗ, lãng phí còn lớn; tháo
gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, giải ngân đầu tư công còn hạn chế. Phần lớn doanh
nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ thấp, năng lực tài chính và
quản trị yếu. Nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài công nghệ trung bình,
gia công, lắp ráp, thiếu gắn kết, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy doanh nghiệp
trong nước phát triển. Kinh tế hợp tác phát triển yếu, kinh tế tập thể chưa làm
tốt vai trò liên kết, hỗ trợ kinh tế hộ.
Thực hiện cơ chế giá thị trường đối
với một số hàng hoá, dịch vụ công còn lúng túng. Một số loại thị trường, phương
thức giao dịch thị trường hiện đại chậm hình thành và phát triển, vận hành còn
nhiều vướng mắc, chưa hiệu quả, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất. Hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển thiếu đồng bộ.
Hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả
chưa cao. Vốn vay nước ngoài giải ngân chậm, sử dụng còn dàn trải, lãng phí.
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thiếu chọn lọc; sự kết nối và chuyển
giao công nghệ giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước còn nhiều
hạn chế. Xuất khẩu tăng nhanh nhưng giá trị gia tăng còn thấp; việc bảo vệ thị
trường trong nước, phòng ngừa, xử lý tranh chấp thương mại quốc tế còn bất cập.
Đổi mới giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa
thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
Đổi mới tư duy và hoạt động giáo dục
và đào tạo chưa đáp ứng tốt yêu cầu đặt ra; một số nhiệm vụ, giải pháp đổi
mới còn thiếu hệ thống, chưa ổn định. Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo
chưa cao. Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa bảo đảm tính đồng bộ và liên thông
giữa các trình độ, các phương thức giáo dục và đào tạo. Nội dung, chương trình
giáo dục và đào tạo còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo vẫn thiếu gắn
kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao
động. Chưa chú trọng đúng mức đến phát triển phẩm chất và kỹ năng người học.
Giáo dục "làm người", đạo đức, lối sống còn bị xem nhẹ. Đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội.
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục,
trên một số mặt vẫn còn bất cập về chất lượng, số lượng, cơ cấu và chính
sách đãi ngộ. Quản lý nhà nước và quản lý - quản trị nhà trường còn nhiều hạn
chế. Nguy cơ tái mù chữ có xu hướng tăng ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số.
Việc tổ chức thực
hiện các chủ trương, chính sách về phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ còn hạn chế, thiếu thể chế về tài chính, chuyển giao, ứng dụng, phát triển khoa học và công
nghệ, nhất là công nghệ cao; thiếu giải pháp đồng bộ và sự phối hợp chặt
chẽ giữa các bộ, ngành và địa phương. Cơ chế và chính sách cán bộ trong hoạt
động khoa học và công nghệ còn nặng về hành chính hoá, chưa tạo được môi trường
thuận lợi để phát huy sức sáng tạo, thu hút nhân tài. Đầu tư cho khoa học và
công nghệ còn thấp, hiệu quả chưa cao, chưa
xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Chưa có chính sách hợp lý về
vay vốn, thuế, hỗ trợ phát triển, tạo động lực để doanh nghiệp đầu tư
đổi mới công nghệ. Hệ thống
thông tin, thống kê khoa học và công nghệ chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phục vụ
việc xây dựng các chiến lược, chính sách. Bảo hộ sở hữu trí tuệ chưa đạt
yêu cầu; chưa gắn kết chặt chẽ giữa khoa học
tự nhiên, khoa học - công nghệ và khoa học xã hội - nhân văn, khoa học lý
luận chính trị để phục vụ phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Lĩnh vực văn hoá,
xã hội, bảo vệ môi trường chưa có nhiều đột phá, hiệu quả chưa cao
Văn hoá chưa được quan tâm tương xứng với
kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của
sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hoá trong xây dựng con người
chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng coi trọng chức năng giải trí
đơn thuần. Thiếu những tác phẩm văn hoá, văn học, nghệ thuật lớn phản ánh sinh
động tầm vóc công cuộc đổi mới, có tác dụng tích cực đối với con người. Môi
trường văn hoá, xã hội tiếp tục bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu
cực. Chênh lệch về hưởng thụ văn hoá giữa các
vùng, miền còn lớn, đời sống văn hoá ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng
sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn
hoá còn nhiều bất cập, lúng túng, chậm trễ trong việc thể chế hoá quan điểm, chủ
trương của Đảng về văn hoá. Đầu tư cho văn hoá chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu
quả chưa cao. Chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp
nghiêm trọng về một số mặt văn hoá, đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội. Hệ
thống thông tin đại chúng còn nhiều hạn chế; một số cơ quan báo chí có biểu
hiện xa rời tôn chỉ và thương mại hoá; quản
lý mạng xã hội còn bất cập. Chất lượng
và số lượng đội ngũ cán bộ văn hoá chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển
văn hoá trong thời kỳ mới. Việc giới thiệu, quảng bá văn hoá Việt Nam ra nước
ngoài chưa mạnh; tiếp nhận tinh hoa văn hoá nhân loại có mặt còn nhiều hạn chế.
Quản lý phát triển xã hội và giải quyết một số
vấn đề xã hội chưa được quan tâm đúng mức, chưa được kết hợp đồng bộ, chặt chẽ
trong quá trình phát triển kinh tế, văn hoá; thể chế quản lý xã hội còn nhiều
bất cập; tình trạng gia tăng tội phạm, tệ nạn, tiêu cực, mâu thuẫn xã hội...
chậm được khắc phục, gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Giảm nghèo chưa bền
vững, chưa có giải pháp để xử lý hữu hiệu vấn đề phân hoá giàu - nghèo, gia
tăng bất bình đẳng, kiểm soát và xử lý các mâu thuẫn xã hội, xung đột xã hội
phát sinh. Chất lượng dịch vụ y tế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc
thiểu số còn nhiều khó khăn, có mặt còn bất cập. Chính sách tiền lương, thu
nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, phúc
lợi xã hội chưa thật sự hiệu quả; thụ hưởng của người dân từ thành tựu
phát triển của đất nước chưa hài hoà.
Ý thức chấp hành pháp luật về quản
lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu còn
thấp. Vai trò, trách nhiệm các cấp, các ngành, cộng đồng và doanh nghiệp chưa
được phát huy đầy đủ. Vẫn để xảy ra một số sự cố môi trường gây hậu quả nghiêm
trọng. Các chế tài để ngăn ngừa, xử lý các hành vi vi phạm chưa đủ sức răn đe
và thiếu hiệu quả. Quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường, thích ứng với
biến đổi khí hậu trên một số mặt còn lỏng lẻo, bất cập. Chất lượng công tác quy
hoạch, đánh giá, định giá tài nguyên còn hạn chế. Xu hướng chạy theo lợi nhuận và lợi ích trước mắt trong khai
thác tài nguyên chưa được khắc phục. Chậm chuyển đổi cơ cấu sử dụng năng
lượng theo hướng tăng tỉ lệ năng lượng tái tạo, năng lượng mới, tiết kiệm. Chất
lượng môi trường tiếp tục xuống cấp; thích ứng với biến đổi khí hậu còn bị động,
lúng túng. Các hệ sinh thái tự nhiên, đa dạng sinh học tiếp tục suy giảm. Ngành
công nghiệp và dịch vụ môi trường, tái chế chất thải, xử lý rác chậm phát triển,
còn lạc hậu. Tình trạng nhập khẩu công nghệ lạc hậu, máy móc, thiết bị, nguyên,
nhiên vật liệu không đạt chuẩn về môi trường chậm được khắc phục.
Các lĩnh vực quốc phòng,
an ninh, đối ngoại còn một số mặt bất cập
Việc quán triệt, tổ chức, triển khai
thực hiện các nghị quyết của Đảng, pháp luật
của Nhà nước về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc có lúc, có nơi hiệu
quả chưa cao. Công tác nắm tình hình, dự báo chiến lược về quốc phòng, an ninh
có lúc chưa thật chủ động. An ninh trên một số địa bàn, lĩnh vực chưa thật vững chắc, còn tiềm ẩn phức tạp, nhất là an ninh
mạng, an ninh trong đầu tư nước ngoài; nhiều yếu tố ảnh hưởng đến an
ninh, an toàn con người chưa được quan tâm giải quyết triệt để; xử lý khiếu
kiện đông người về đất đai và một số tình huống phức tạp nảy sinh ở một số địa
bàn cơ sở có lúc, có nơi còn bị động, lúng túng. Công tác quản lý, bảo đảm an
toàn thông tin, an ninh mạng còn hạn chế. Việc kết hợp kinh tế, văn hoá, xã hội
với quốc phòng, an ninh ở một số địa phương, đơn vị thiếu hiệu quả, còn biểu
hiện chủ quan, mất cảnh giác, nặng về lợi ích kinh tế đơn thuần, trước mắt.
Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc
tế có mặt, có lúc chưa theo kịp diễn biến của tình hình, chưa lường hết những
tác động bất lợi. Chưa khai thác tốt và phát huy hiệu quả các quan hệ lợi ích
đan xen với các đối tác quan trọng. Sự phối hợp giữa các ngành, các địa phương trong
công tác đối ngoại chưa chặt chẽ, thường xuyên.
Sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có mặt, có nơi chưa được phát huy đầy
đủ
Các nguồn lực, tiềm năng sáng tạo
của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chưa được phát huy tốt. Việc đổi
mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới, chưa thật sâu sát các
tầng lớp nhân dân và cơ sở; chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện
xã hội chưa đều. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương
mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân và giải quyết kịp
thời những quyền, lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của người dân. Quyền
làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình
thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật.
Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội và quản lý đất nước trong tình hình mới
Vấn đề đổi mới đồng bộ, phù hợp giữa
kinh tế với chính trị, văn hoá, xã hội, giữa đổi mới kinh tế với đổi mới tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có một số mặt chưa rõ nên còn lúng túng.
Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của nhân dân chưa
được phát huy mạnh mẽ.
Hệ thống pháp luật còn một số quy
định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn. Chấp hành pháp
luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương, phép nước còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm
pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe. Cải cách hành chính,
cải cách tư pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước.
Tổ chức và hoạt động của chính quyền
địa phương chưa đổi mới mạnh mẽ; chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa
thật rõ ràng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Số lượng cán bộ cấp xã
và đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công vẫn còn quá lớn; phẩm chất,
năng lực, uy tín còn nhiều hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng được
yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng còn một số hạn chế
Việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quán
triệt và thực hiện một số nghị quyết còn chậm, chưa quyết liệt, chưa hiệu quả.
Thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở
một số tổ chức đảng còn chưa nghiêm, thậm chí vi phạm.
Công tác tư tưởng có nơi, có lúc chưa
thực sự được cấp uỷ coi trọng, chưa kịp thời, thiếu thuyết phục. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận chưa được quan tâm đúng mức, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu, một
số vấn đề mới, khó, phức tạp chưa được làm sáng tỏ. Công tác thông tin, tuyên
truyền một số chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước chưa phong phú, thường xuyên, kịp thời, chưa đáp ứng được sự quan tâm của
nhân dân. Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan
điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến
đấu chưa cao; công tác nắm bắt dư luận trước
những sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời.
Việc thể chế hoá, cụ thể hoá chủ
trương của Đảng về một số nội dung trong công tác cán bộ còn chậm; có nội dung
chưa thống nhất giữa pháp luật của Nhà nước và quy định của Đảng.
Năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức đảng còn thấp. Công tác rèn luyện, quản lý đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm
đúng mức; có nơi còn buông lỏng sinh hoạt đảng, chất lượng sinh hoạt chưa cao, sinh
hoạt chi bộ ở nhiều nơi vẫn còn hình thức; tính chiến đấu trong tự phê bình và
phê bình còn yếu. Công tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong
các doanh nghiệp ngoài nhà nước còn lúng túng, hạn chế; công tác phát triển
đảng viên ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi có đông đồng bào dân tộc
thiểu số, tôn giáo còn nhiều khó khăn. Công tác quản lý, rèn luyện đảng viên
còn thiếu chặt chẽ. Việc đánh giá, xếp loại tổ chức đảng và đảng viên ở một số
nơi còn chưa thực chất. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm
sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá".
Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng chuyển biến chưa đều; chưa chú trọng công tác phòng ngừa. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ chưa
chú trọng đầy đủ đến vấn đề chính trị hiện nay. Công tác dân vận có nơi, có lúc còn hạn chế; việc nắm, đánh giá, dự
báo tình hình, nhất là những địa bàn phức tạp chưa kịp thời, sâu sát.
Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương, bộ, ngành chưa có chuyển biến rõ rệt; công tác phòng
ngừa tham nhũng ở một số nơi còn hình thức. Việc phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng
phí vẫn còn hạn chế, tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí
trong nội bộ, cơ quan, đơn vị còn yếu; tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong
khu vực hành chính, dịch vụ công chưa được đẩy lùi. Tham nhũng, lãng phí trên
một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện
ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là một trong những
nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ ta.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với hệ thống chính trị, trọng tâm là đối với Nhà nước còn chậm đổi mới, có mặt
còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng
bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao.
Những hạn chế, khuyết điểm trong quá
trình thực hiện Nghị quyết Đại hội XII có nguyên
nhân khách quan, song trực tiếp và quyết định nhất là do nguyên nhân chủ quan.
Trước hết, nhận thức về một số chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước còn chưa sâu sắc, thiếu thống nhất, do vậy một số
công việc triển khai thiếu kiên quyết, còn lúng túng.
Thứ hai, chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn
là khâu yếu, chậm được khắc phục; năng lực cụ thể hoá, thể chế hoá chủ trương, nghị
quyết còn hạn chế, năng lực tổ chức thực hiện
của cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, làm cho nghị quyết, pháp
luật chậm được thực hiện và hiệu quả thấp.
Thứ ba, nhiều hạn chế, yếu kém trong lãnh
đạo, quản lý, điều hành của các cấp uỷ, chính quyền và đội ngũ cán bộ, đảng
viên ở một số nơi chậm được khắc phục; trách nhiệm người đứng đầu chưa thực sự
được đề cao. Tư tưởng trông chờ, thụ động, ỷ lại vào cấp trên, tình trạng nói
không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, kỷ cương phép nước không nghiêm còn khá
phổ biến; chưa tạo được nhiều cơ chế, chính sách, giải pháp có tính đột phá, đồng
bộ để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, huy động mọi nguồn
lực cho phát triển.
Thứ tư, nhận thức, triển khai đổi mới tổ
chức bộ máy một số cơ quan Trung ương và địa phương chưa đều, chưa thật đồng
bộ. Công tác cán bộ còn có mặt hạn chế, việc thực hiện một số nội dung trong
các khâu công tác cán bộ ở một số nơi còn hình thức. Tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, "lợi ích nhóm",
bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một
bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi.
Những hạn chế, khuyết điểm trên đây đòi hỏi toàn Đảng phải nghiêm túc nhìn
nhận, nỗ lực phấn đấu để khắc phục, tiếp tục lãnh đạo đất nước phát triển nhanh,
bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, trực tiếp là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại
hội XII của Đảng, rút ra một số bài học kinh
nghiệm sau:
Một là, chú trọng đặc biệt công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao
năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng
cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính
trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng, nhất là
nguyên tắc tập trung dân chủ. Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực;
kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, "tự diễn biến",
"tự chuyển hoá" trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí. Công tác cán bộ phải thực sự là "then chốt của then
chốt", tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu
gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương
mẫu, nhất là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung
ương.
Hai là, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực
hiện nghiêm túc quan điểm "dân là gốc"; nhân dân là trung tâm, là chủ
thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính
sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của
nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố và
tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Ba là, trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ
chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết
liệt, năng động, sáng tạo, tích cực, có bước đi phù hợp, phát huy mọi nguồn lực,
động lực và tính ưu việt của chế độ xã hội; kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn; đề
cao trách nhiệm người đứng đầu gắn liền với phát huy sức mạnh đồng bộ của hệ
thống chính trị, giữ vững kỷ cương; coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận; thực hiện tốt sự phối, kết hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành; coi
trọng chất lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển.
Bốn là, tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ
thể chế phát triển, bảo đảm hài hoà giữa kế thừa và đổi mới, ổn định và phát
triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hoá, xã hội; giữa tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, con người, giải quyết các vấn đề xã hội,
bảo vệ tài nguyên, môi trường; giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm quốc
phòng, an ninh; giữa độc lập, tự chủ với tăng cường đối ngoại, hội nhập quốc tế;
thực sự coi trọng, phát huy hiệu quả vai trò của giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ trong phát triển đất nước.
Năm là, chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo
đúng tình hình, không để bị động, bất ngờ; kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với giữ vững môi
trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế toàn diện và sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường; xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn và các nước láng
giềng, đánh giá đúng xu thế, nắm bắt trúng thời cơ; phát huy hiệu quả sức mạnh
tổng hợp của đất nước; khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất
nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
2. Đánh giá chung về 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung, phát triển năm 2011), 10 năm thực
hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, 30 năm thực
hiện Cương lĩnh 1991, 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới
Mười năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và thực hiện Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã tạo những bước tiến quan trọng cả về nhận
thức lý luận và tổ chức thực hiện, khẳng định những giá trị to lớn của Cương
lĩnh.
Về nhận thức lý luận: Mục tiêu, đặc trưng, những
phương hướng cơ bản và những quan hệ lớn mang tính quy luật trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc tiếp tục được bổ sung, cụ thể hoá, phát
triển với những nhận thức quan trọng. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mô hình phát triển tổng quát của nền kinh tế Việt Nam. Gắn kết giữa
tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát huy nhân tố
con người, lấy nhân dân làm trung tâm; phát huy vai trò của văn hoá - nền tảng
tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển. Bản chất của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân; đổi mới phương thức vận hành của Nhà nước theo hướng hoàn thiện
thể chế, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; hoàn thiện mô
hình tổ chức của Nhà nước, phân công, phối hợp giữa các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp, coi trọng kiểm soát quyền lực nhà nước; giải quyết mối quan hệ
giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và
người dân. Nhận thức sâu sắc hơn bản chất, tính cách mạng, tính tiên phong của
Đảng; vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; yêu cầu xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ; nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện mới; đẩy mạnh xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và
uy tín, ngang tầm nhiệm vụ...
Quán triệt sâu sắc phương châm quốc
phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Kết hợp chặt chẽ giữa bảo
đảm quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội; hoàn thiện lý luận về
quốc phòng, an ninh và tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi
"nước chưa nguy" trên cơ sở xây dựng thế trận lòng dân vững chắc; xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có một số quân chủng, binh chủng, lực
lượng tiến thẳng lên hiện đại.
Hoàn thiện và nhận thức sâu sắc hơn
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên
tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng. Bảo đảm trên hết và trước hết lợi ích quốc gia -
dân tộc trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi, chú
trọng nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Về thực tiễn: Trong 10 năm qua, mặc dù gặp nhiều
khó khăn, thách thức rất lớn, nhưng kinh tế - xã hội nước ta đã đạt được nhiều thành
tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế được duy trì ở mức độ khá cao. Đổi
mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá
chiến lược có bước chuyển biến tích cực, đạt một số kết quả đáng khích lệ. Thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được xác lập theo
hướng đầy đủ, hiện đại và hội nhập. Giáo dục và đào tạo có bước đổi mới, đóng
góp tích cực vào xây dựng con người, phát triển nguồn nhân lực. Đẩy mạnh ứng
dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực. Nhiều công trình kết cấu hạ tầng hiện đại được xây dựng, đưa vào sử dụng.
Các lĩnh vực văn hoá, xã hội tiếp
tục được phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện
rõ rệt. Giảm nghèo nhanh, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. An sinh xã hội, phúc
lợi xã hội từng bước được nâng cao. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và
ứng phó với biến đổi khí hậu được chú trọng;
quốc phòng, an ninh được tăng cường; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật
tự, an toàn xã hội. Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; giữ
vững môi trường hoà bình để phát triển đất nước; vị thế và uy tín quốc tế của
Việt Nam tiếp tục được nâng cao.
Tuy nhiên, kinh tế - xã hội phát triển vẫn chưa
tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước và còn nhiều khó khăn, thách
thức. Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế -
xã hội trong Chiến lược 2011 - 2020 và việc tạo nền tảng để đưa nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt được mục tiêu đề
ra. Công cuộc đổi mới tiếp tục đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần
phải tập trung giải quyết để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là việc nhận thức, giải quyết đúng, hiệu quả
các mối quan hệ lớn.
Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm
thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn và từng bước được hiện
thực hoá. Đất nước đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với
những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống
nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn
lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi
khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng
bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Những thành tựu của 35 năm thực hiện
công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, đặc
biệt, trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011)
đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân
dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với
thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động nhanh, phức tạp, Cương
lĩnh tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam "dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
II- TẦM NHÌN VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
1. Dự báo tình hình thế giới và đất nước những năm sắp tới
Trên thế giới, tình hình tiếp tục diễn biến hết sức
nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế
lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa
các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp
và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường chính trị, an ninh
quốc tế. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang phải
đối mặt với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc. Luật pháp quốc tế và các thể chế
đa phương toàn cầu đứng trước những thách thức lớn.
Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi
theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, thoả hiệp, nhưng đấu
tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa
cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa dân tuý trong quan hệ quốc
tế gia tăng. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều
khó khăn, thách thức mới.
Kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng,
suy thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài do tác động của đại dịch Covid-19.
Các quốc gia, nhất là các nước lớn điều chỉnh lại chiến lược phát triển, giảm
bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, làm thay đổi các chuỗi cung ứng. Cạnh tranh
kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công
nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng quyết liệt, tác động mạnh
đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo
ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc.
Những vấn đề toàn cầu như bảo vệ hoà
bình, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi
truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm
môi trường,... tiếp tục diễn biến phức tạp.
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong
đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh
gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh
thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hoà bình,
ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước
thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. ASEAN có vai trò quan trọng trong duy
trì hoà bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực nhưng cũng đứng trước nhiều khó
khăn.
Ở trong nước, sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức
mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo
ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm năm tới, Việt Nam hội nhập quốc
tế sâu, rộng hơn sẽ phải thực hiện đầy đủ, hiệu quả các cam kết khi tham gia
các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nền kinh tế phát triển chưa bền vững,
còn nhiều hạn chế, yếu kém, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới do tác
động của đại dịch Covid-19 và khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây ra. Xu hướng già
hoá dân số nhanh; tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá tăng mạnh; biến đổi khí
hậu gay gắt, phức tạp... ngày càng tác động mạnh đến sự phát triển của đất
nước.
Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn
tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn. Nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung
bình còn lớn. Có biểu hiện chưa quan tâm đúng mức bảo đảm phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, về phát triển văn hoá, bảo đảm phúc lợi xã hội, thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong phát triển kinh tế thị trường; chưa bảo
đảm phát triển tổng thể, đồng bộ các vùng, miền, địa phương theo lợi thế so
sánh và phát huy điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù. Tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn
biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã
hội còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá
Đảng, Nhà nước và đất nước ta. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ
vững môi trường hoà bình, ổn định và thích ứng với biến đổi khí hậu là yêu cầu
cấp thiết, đồng thời là những thách thức rất lớn đối với nước ta trong thời
gian tới.
Tình hình thế giới và trong nước có
cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới,
yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
đòi hỏi toàn Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm chính trị
cao, dự báo chính xác, kịp thời diễn biến của tình hình, chủ động ứng phó kịp thời
với mọi tình huống, nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Không
ngừng gia tăng tiềm lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và những thành quả phát triển
đã đạt được.
2. Quan điểm chỉ đạo
Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới
của Đảng, trong giai đoạn tới đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải quán
triệt trong nhận thức và hoạt động thực tiễn các quan điểm cơ bản sau:
- Kiên định và vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Bảo đảm trên hết và trước hết lợi
ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình
đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn
kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế -
xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng
tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
- Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu
nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hoá, con người Việt Nam,
bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân
tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là
những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mới cho
phát triển nhanh và bền vững đất nước.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí
độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập
và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ
ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan
trọng nhất.
- Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng;
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng
Nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất
là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định
thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
3. Mục tiêu phát triển
Mục tiêu tổng quát: Nâng cao năng lực lãnh
đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố niềm tin của nhân dân đối
với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà
bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát
triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu cụ thể:
- Đến năm 2025: Là nước đang phát triển có
công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
- Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
4. Định hướng các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025
a) Về kinh tế
Tốc độ tăng
trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm đạt khoảng 6,5 - 7%/năm. Đến năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700 - 5.000 USD; đóng góp
của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt khoảng 45%; tốc độ
tăng năng suất lao động bình quân trên 6,5%/năm; tiêu hao năng lượng tính trên
GDP bình quân giảm 1 - 1,5% hằng năm; tỉ lệ đô thị hoá khoảng 45%; tỉ trọng
công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt trên 25%; kinh tế số đạt khoảng 20%
(GDP).
b) Về xã hội
Đến năm 2025, tỉ
trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 25%; tỉ lệ lao động qua đào tạo là 70%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực
thành thị năm 2025 dưới 4%; tỉ lệ nghèo đa
chiều duy trì mức giảm 1 - 1,5% hằng năm; có 10 bác sĩ và 30 giường
bệnh/1 vạn dân; tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95% dân số; tuổi thọ trung
bình khoảng 74,5 tuổi; tỉ lệ xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 75%, trong
đó ít nhất 10% đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.
c) Về môi trường
Đến năm 2025, tỉ lệ sử dụng nước
sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư thành thị là 95 - 100% và nông thôn là 93 -
95%; tỉ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy
chuẩn đạt 90%; tỉ lệ khu công nghiệp, khu chế
xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn
môi trường là 92%; tỉ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý
đạt 100%; giữ tỉ lệ che phủ rừng ổn định 42%.
Quyết tâm phấn đấu đạt các chỉ tiêu cao nhất, đồng thời chuẩn bị các phương
án để chủ động thích ứng với những biến động của tình hình.
5. Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030
(1) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy,
xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp
thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát
triển nhanh và bền vững đất nước.
(2) Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ
thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi
trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc
đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ
mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển kinh
tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát
triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
(3) Tạo đột phá trong đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và
trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành
tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào các lĩnh vực của đời sống xã
hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm
động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số
lĩnh vực so với khu vực và thế giới.
(4) Phát triển con người toàn diện và
xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hoá thực
sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hoá. Xây dựng, phát triển, tạo môi
trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm
tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài
năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động
lực phát triển quan trọng nhất của đất nước.
(5) Quản lý phát triển xã hội có hiệu
quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hoá, đạo đức xã hội lành mạnh, văn
minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số
với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc
làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải
thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
(6) Chủ động thích ứng có hiệu quả
với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh, quản lý, khai
thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ
môi trường sống và sức khoẻ nhân dân làm mục
tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo
vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế
tuần hoàn, thân thiện với môi trường.
(7) Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh kinh tế, an ninh mạng, an ninh con người, xây
dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung
đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những nhân tố bất lợi, nhất
là những nhân tố có thể gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.
(8) Tiếp tục thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ
vững môi trường hoà bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế
của Việt Nam.
(9) Thực hành và phát huy rộng rãi
dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò tự quản của nhân dân; phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân,
tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
(10) Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả,
vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của
đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm
soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước
và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và
tệ nạn xã hội.
(11) Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn
Đảng toàn diện; đổi mới phương thức lãnh đạo,
nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược có đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ;
làm tốt công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ
chính trị nội bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật và dân vận của
Đảng.
(12) Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt
các quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn
thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và
xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội và bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo
đảm kỷ cương xã hội. Trong nhận thức và giải quyết các quan hệ lớn, cần chú
trọng hơn đến bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng, hoàn thiện quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp; phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ môi trường; bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữ vững độc lập, tự
chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
III- ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG, CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ; ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ, PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC NHANH, BỀN VỮNG
1. Đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh
Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh
tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên cơ sở tăng năng suất, tiến bộ
khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết
kiệm, hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế. Cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo,
phát triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ
các thành tựu của khoa học công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư; phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm công nghệ cao, có
giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường, tham gia có hiệu quả vào mạng
sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế. Cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả đầu tư. Cơ cấu lại, phát triển lành mạnh các
loại thị trường, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất để huy động, sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực. Cơ cấu lại thị trường tài chính - tiền tệ đáp ứng yêu
cầu huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. Cơ cấu lại thu, chi ngân sách nhà nước,
bảo đảm an toàn nợ công. Cơ cấu lại thị trường bất động sản, đất đai, tài
nguyên để đất, tài nguyên được sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả cao. Cơ
cấu lại các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ theo hướng tập trung phát
triển các lĩnh vực, các sản phẩm có tiềm năng, lợi thế, công nghệ cao, giá trị
gia tăng cao, sức cạnh tranh cao trong hội nhập quốc tế. Cơ cấu lại hệ thống
doanh nghiệp, phát triển lực lượng doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, tăng cường
gắn kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước.
Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung vào những lĩnh vực then chốt, quan
trọng; lành mạnh hoá tài chính, nâng cao trình độ công nghệ, năng lực đổi mới
sáng tạo, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế để nâng cao hiệu quả hoạt
động, thực hiện tốt vai trò là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà
nước. Nâng cao tính tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập; đẩy mạnh xã hội hoá;
khuyến khích các thành phần kinh tế các tổ chức xã hội tham gia phát triển, cung
cấp dịch vụ công. Cơ cấu lại kinh tế vùng, đổi mới thể chế liên kết giữa các
địa phương trong vùng và giữa các vùng, phát huy vai trò các vùng kinh tế động
lực, quan tâm phát triển các vùng còn khó khăn, thu hẹp chệnh lệch phát triển
giữa các vùng.
2. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên nền tảng của tiến
bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Điều chỉnh, bổ sung, nâng cao chất
lượng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nền kinh tế, các ngành, lĩnh
vực, các vùng phù hợp với thực tiễn đất nước và trình độ phát triển khoa học, công
nghệ hiện đại trên thế giới. Đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng, nghiên cứu, phát
triển, làm chủ công nghệ hiện đại; phát triển một số sản phẩm chủ lực có thương
hiệu mạnh, có uy tín trong khu vực và thế giới. Nâng cao tiềm lực khoa học và
công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, tạo cơ sở đẩy mạnh, phát
triển kinh tế số.
Xây dựng nền công nghiệp quốc gia
vững mạnh. Cơ cấu lại công nghiệp, nâng cao trình độ công nghệ, đẩy mạnh chuyển
đổi sang công nghệ số, tập trung phát triển những ngành công nghiệp nền tảng, nhất
là công nghiệp cơ khí, chế tạo, công nghiệp phụ trợ, nâng cao tính tự chủ của
nền kinh tế, có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp công nghệ cao, thân thiện với môi
trường. Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh kết hợp phục vụ dân sinh.
Dựa trên công nghệ mới, hiện đại để phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế
(chế biến nông sản, dệt may, da giày...), tạo nhiều việc làm, sản xuất hàng
xuất khẩu, đóng góp lớn vào giá trị gia tăng quốc gia. Bố trí lại công nghiệp
trên các địa bàn lãnh thổ hợp lý hơn; nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công nghệ cao, khu kinh tế, khu công nghiệp.
Nâng cao trình độ khoa học, công nghệ ngành xây dựng đủ năng lực thiết
kế, thi công các công trình xây dựng lớn, phức tạp, hiện đại, có khả năng cạnh
tranh trong nước và quốc tế.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ
trương cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng
nông thôn mới. Phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, ứng dụng công
nghệ cao, nông nghiệp sinh thái dựa trên tiến bộ khoa học và công nghệ; phát
huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương; đổi mới tổ chức, phát
triển kinh tế hợp tác, thu hút doanh nghiệp đầu tư, cải tiến quản lý nhà nước
để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, thích ứng với biến đổi khí
hậu. Gắn kết chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; sản xuất với bảo
quản, chế biến, xây dựng thương hiệu, tiêu thụ, nâng cao giá trị nông sản trong
các chuỗi giá trị. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; kết
nối nông thôn với đô thị; tiếp tục đẩy mạnh chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu. Tập trung phát triển kinh
tế nông thôn, xây dựng đời sống văn hoá, bảo vệ môi trường sinh thái.
Phát triển mạnh khu vực dịch vụ dựa trên
nền tảng ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, nhất là các
dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Tập trung phát triển mạnh một số ngành dịch vụ
như: Du lịch, thương mại, viễn thông, công nghệ thông tin, vận tải, logistics, dịch
vụ kỹ thuật, dịch vụ tư vấn pháp lý... Hiện đại hoá và mở rộng các dịch vụ tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, dịch vụ y tế, giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ, dịch vụ văn hoá, thể thao, dịch vụ thương mại... Tổ chức cung
ứng dịch vụ chuyên nghiệp, văn minh, hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế.
Thực hiện tốt Chiến lược phát triển
bền vững kinh tế biển, kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ
chủ quyền biển, đảo, tài nguyên, môi trường biển; phòng, chống thiên tai, tìm
kiếm cứu nạn, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao đời sống nhân dân vùng
biển, đảo. Tổ chức tốt việc xây dựng và quản lý thống nhất quy hoạch không gian
biển quốc gia, hoàn thiện cơ chế quản lý tổng hợp và chuyên ngành về biển, đảo.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật trên biển, bảo vệ chủ quyền biển,
đảo của Tổ quốc. Đẩy mạnh phát triển và nâng cao hiệu quả các ngành kinh tế
biển. Phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp và các đô thị ven biển. Đẩy
mạnh đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển, nhất là nhân lực chất lượng cao.
Tăng cường nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, điều tra tài nguyên, môi
trường biển; xây dựng cơ sở dữ liệu số về biển, đảo, nâng cao năng lực giám sát
môi trường biển, dự báo thiên tai, biến đổi khí hậu vùng biển, ven biển.
Xây dựng chiến lược, hoàn thiện thể
chế phát triển đô thị và kinh tế đô thị làm động lực phát triển từng vùng và
địa phương; tăng cường quản lý đô thị, phát triển các đô thị vệ tinh, hạn chế
xu hướng tập trung quá mức vào các đô thị lớn. Xây dựng đô thị hiện đại, văn
minh, đô thị thông minh, đa dạng về loại hình, có bản sắc đặc trưng về kiến
trúc, văn hoá ở từng địa phương.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đột phá
chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình
hiện đại. Tập trung ưu tiên đầu tư, sớm đưa vào sử dụng các công trình, cụm
công trình, dự án hạ tầng trọng điểm về giao thông đường bộ, đường sắt, đường
biển, đường không kết nối các vùng, khu vực, các trung tâm kinh tế trong nước
và quốc tế; hạ tầng năng lượng, nhất là năng lượng tái tạo, bảo đảm cung cấp đủ,
ổn định năng lượng cho nền kinh tế và sinh hoạt xã hội; phát triển hệ thống
thuỷ lợi, hồ, đê, đập, nâng cao năng lực phòng, chống thiên tai; tập trung cao
hơn các nguồn lực cho thích ứng với biến đổi khí hậu; xây dựng đồng bộ, hiện
đại hạ tầng ở các đô thị, nhất là các đô thị lớn; tạo bứt phá trong phát triển
hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông, xây dựng, kết nối cơ sở dữ liệu quốc
gia v.v... Xây dựng cơ chế đẩy mạnh huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã
hội, đa dạng hoá hình thức đầu tư cho các lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng.
Nâng cao chất
lượng quy hoạch vùng; đổi mới, hoàn thiện thể chế quản lý vùng có hiệu quả, phát huy tốt nhất tiềm
năng, lợi thế của từng vùng, tăng cường liên kết giữa các
địa phương trong vùng và giữa các vùng. Sáp nhập hợp lý một số đơn vị hành
chính cấp xã, huyện phù hợp với điều kiện, yêu cầu phát triển mới. Đổi mới cơ
chế phân cấp, phân quyền, uỷ quyền, gắn với phân
định và nâng cao trách nhiệm của Trung ương và địa phương.
IV- HOÀN THIỆN TOÀN DIỆN, ĐỒNG BỘ THỂ CHẾ, PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh" phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh
tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng
được khuyến khích phát triển.
Kinh tế nhà nước là công cụ, lực
lượng vật chất quan trọng để Nhà nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định
hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết
tật của cơ chế thị trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù
hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trường. Doanh nghiệp nhà
nước tập trung vào lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh;
hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc
tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế.
Kinh tế tập thể, các hợp tác xã, tổ
hợp tác có vai trò cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết, phối hợp sản
xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng cao
năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững. Tăng cường liên
kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã.
Kinh tế tư nhân được khuyến khích
phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, nhất là trong
lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, được hỗ trợ phát triển thành các công ty,
tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao. Khuyến khích doanh nghiệp
tư nhân hợp tác, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát
triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất
là người lao động. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của
kinh tế quốc dân, có vai trò lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương
thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ.
Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh,
giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường
thuận lợi, công khai, minh bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị
trường hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết
phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm
quốc phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính
sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng
kinh tế nhà nước phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường.
Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hoá, dịch vụ; tạo
động lực huy động, phân bổ các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều
tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém. Các tổ
chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những
vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành
viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho
các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà
nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát
các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp
luật.
2. Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn
Nâng cao chất lượng, hiệu
quả quản trị quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch. Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi
thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển
kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô
hình kinh doanh mới. Tập trung sửa
đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế. Đẩy mạnh
cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, uỷ quyền gắn với tăng cường
kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa
các cấp, các ngành.
Tiếp tục hoàn thiện thể
chế, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường đối với hàng hoá, dịch vụ, kể cả
các dịch vụ công cơ bản. Phát triển thị trường các yếu tố sản xuất để thị trường đóng vai trò quyết định trong huy động, phân bổ, sử
dụng các nguồn lực. Phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ theo các phương thức
tổ chức, giao dịch văn minh, hiện đại, thương mại điện tử. Phát triển đồng bộ, nâng
cao hiệu quả hoạt động của các thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng
khoán, thị trường bảo hiểm... trên nền tảng công nghệ số với kết cấu hạ tầng, công
nghệ và phương thức giao dịch hiện đại. Phát triển mạnh thị trường khoa học và
công nghệ. Phát triển và quản lý chặt chẽ thị trường bất động sản; thị trường
quyền sử dụng đất. Phát triển thị trường lao động, cải cách chính sách tiền
lương, bảo hiểm xã hội. Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, xã hội - nghề
nghiệp tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường. Xử lý tốt
những bất cập của cơ chế thị trường, bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội, quốc
phòng, an ninh và bảo vệ môi trường sinh thái.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Đẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, cổ phần hoá, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước; thúc đẩy đổi mới,
nâng cao trình độ công nghệ, áp dụng chế độ quản trị doanh nghiệp hiện đại để
nâng cao hiệu quả, đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của doanh
nghiệp, không để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước. Nhà nước có chính
sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, các hợp tác
xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế hộ, trang trại trong nông nghiệp. Khuyến
khích doanh nghiệp tư nhân đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, phát triển nguồn
nhân lực, mở rộng thị trường, cải thiện thu nhập, điều kiện làm việc của người
lao động và tham gia các hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả
các dự án đối tác công - tư trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng. Ưu tiên
những dự án đầu tư nước ngoài có trình độ
công nghệ cao, thân thiện với môi trường, sử dụng lao động có kỹ năng; đầu
tư vào những ngành, lĩnh vực cần ưu tiên phát
triển; có liên kết, chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong
nước phát triển, tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.
3. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu
quả hội nhập kinh tế quốc tế
Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc
xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Phát
triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ
vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường
tiềm lực kinh tế quốc gia. Đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế quốc tế, tránh
lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền
kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hoàn
thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong
nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế
quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước
trong từng giai đoạn. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước
quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả
năng làm việc trong môi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công
tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế.
V- ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC, PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương
giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là
động lực then chốt để phát triển đất nước. Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội
dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng
hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu
cầu mới của phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, năng lực
sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự
tôn dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt
Nam.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt chú trọng giáo dục
mầm non, tiểu học, tạo tiền đề và bảo đảm điều kiện thuận lợi để mỗi người dân
đều được thụ hưởng một cách công bằng thành quả của nền giáo dục. Củng cố và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục. Thực hiện tốt hơn phân
luồng học sinh sau trung học cơ sở. Đa dạng hoá các loại hình đào tạo. Thúc đẩy
xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời. Đẩy mạnh tự chủ đại học. Có chính
sách đột phá phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Thúc đẩy phát triển các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất
lượng cao. Xây dựng các cơ chế, chính sách và giải pháp để đào tạo lại
lực lượng lao động phải chuyển đổi nghề
nghiệp do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và tác
động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển giáo dục Việt Nam
trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, lấy chất lượng và hiệu
quả đầu ra làm thước đo. Xây dựng và triển khai
thực hiện lộ trình tiến tới miễn học phí đối
với học sinh phổ thông, trước hết là đối với học sinh tiểu học và trung học cơ
sở. Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển các cơ sở đào tạo ngoài
công lập phù hợp với xu thế của thế giới và điều
kiện của Việt Nam trên cơ sở bảo đảm công
bằng xã hội và các giá trị cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan
tâm thích đáng đến phát triển giáo dục ở miền núi, vùng cao, hải đảo, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy
mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công
nghệ của các cơ sở giáo dục và đào tạo. Gắn kết chặt chẽ giáo dục và đào tạo
với nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới; hình
thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, các nhóm đổi mới sáng tạo mạnh. Cùng
với đề cao vị trí, vai trò và trách nhiệm xã hội, cần đổi mới mạnh mẽ chính
sách đãi ngộ, chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là
khâu then chốt. Sắp xếp, đổi
mới căn bản hệ thống các cơ sở đào tạo sư phạm, thực hiện đồng bộ các cơ
chế, chính sách và giải pháp để cải thiện mức sống, nâng cao trình độ và chất
lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư cho giáo dục và đào tạo gắn với đổi
mới cơ chế để nâng cao hiệu quả đầu tư. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy
mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo đúng hướng, hợp lý. Đầu tư thích đáng cho
giáo dục và đào tạo chất lượng cao, trình độ cao; có chính sách đầu tư đặc thù
cho vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện có hiệu quả các
chính sách xã hội trong giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh đổi mới đồng bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước, quản lý và quản trị nghiệp vụ chuyên môn trong giáo dục
và đào tạo, từng bước thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ gắn với trách nhiệm
giải trình của các cơ sở giáo dục và đào tạo. Xây dựng môi trường giáo dục lành
mạnh, kiên quyết khắc phục bệnh thành tích, ngăn ngừa và xử lý nghiêm các tiêu
cực trong giáo dục và đào tạo. Hoàn thiện và thực hiện ổn định các phương thức
đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục và đào tạo, thi tốt nghiệp trung học
phổ thông và tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng và đào tạo nghề.
Xây dựng và thực hiện có
hiệu quả chiến lược hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo. Phấn
đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về giáo dục và đào tạo ở khu vực, bắt
kịp với trình độ tiên tiến của thế giới, tham gia vào thị trường đào tạo nhân
lực quốc tế.
VI- THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI
SÁNG TẠO, CHUYỂN GIAO, ỨNG DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN MẠNH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Tiếp tục quán triệt, thực hiện nhất quán chủ trương khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Có chiến lược phát triển khoa học và
công nghệ phù hợp với xu thế chung của thế giới và điều kiện đất nước, đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chú trọng phát triển khoa học tự nhiên, khoa học kỹ
thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị. Ưu tiên chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ khoa học
và công nghệ vào phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và phát triển con người
Việt Nam.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ
thể chế, chính sách ứng dụng, phát triển khoa học và công nghệ. Nâng cao năng lực hệ
thống đổi mới sáng tạo quốc gia, cơ cấu lại các chương trình nghiên cứu khoa
học và công nghệ theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, lấy phục vụ hiệu
quả sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc làm mục tiêu. Rà soát, sắp xếp lại hệ
thống tổ chức khoa học và công nghệ gắn với đổi mới toàn diện chính sách nhân
lực khoa học và công nghệ. Tăng cường đầu tư phát triển khoa học và công nghệ
theo cơ chế thị trường trên cơ sở huy động hợp lý nguồn lực từ Nhà nước, doanh
nghiệp và các cá nhân. Hỗ
trợ, khuyến khích các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu phát
triển, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ. Chuyển đổi
cơ chế đầu tư, quản lý tài chính khoa học và công nghệ theo nguyên tắc đặt hàng,
dựa vào kết quả, hiệu quả cuối cùng. Các ngành, các cấp có trách nhiệm trong
việc thúc đẩy phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào lĩnh vực
mình phụ trách.
Phát triển một số ngành khoa học và
công nghệ mũi nhọn, trực tiếp góp phần giải quyết các vấn đề cấp bách, phù hợp
với điều kiện, nguồn lực của đất nước. Ưu tiên chuyển giao, ứng dụng công nghệ
tiên tiến vào các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh trọng yếu. Phát triển hạ tầng số và bảo đảm
an ninh mạng, tạo điều kiện cho người dân và các doanh nghiệp thuận lợi, an toàn tiếp cận nguồn tài nguyên số, xây
dựng cơ sở dữ liệu lớn. Tháo gỡ kịp thời những vướng mắc, thực hiện tốt
các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng và đãi ngộ đội ngũ
cán bộ khoa học và công nghệ, nhất là chuyên gia đầu ngành, nhân tài trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Tiếp tục phát triển
thị trường khoa học và công nghệ, hỗ trợ thương mại hoá các kết quả
nghiên cứu khoa học và công nghệ. Nâng cao hiệu quả hoạt động tiêu chuẩn đo
lường chất lượng và sở hữu trí tuệ, thông tin, thống kê khoa học và công nghệ.
Tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế về khoa học và
công nghệ. Đa dạng hoá hợp tác quốc tế, ưu tiên hợp tác với các đối tác chiến lược.
Gắn hợp tác quốc
tế về khoa học và công nghệ với mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, quốc
phòng và an ninh. Có chính sách hỗ trợ hoạt động giao lưu, trao đổi học thuật
quốc tế.
VII- XÂY DỰNG VÀ PHÁT
HUY GIÁ TRỊ VĂN HOÁ, SỨC MẠNH CON NGƯỜI VIỆT NAM
Tập trung nghiên cứu, xác định và
triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con
người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ
mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên,
nhi đồng. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách
nhiệm xã hội cho thanh niên. Thực hiện những giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn
có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các
tệ nạn xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền
thống văn hoá Việt Nam. Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng
và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc của
người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Từng bước vươn lên khắc phục các hạn
chế của con người Việt Nam đã tồn tại trong lịch sử; xây dựng con người Việt
Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hoà
giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại.
Có cơ chế, chính sách, giải pháp để xây
dựng môi trường văn hoá thật sự trong sạch, lành mạnh, cải thiện điều kiện
hưởng thụ văn hoá của nhân dân. Phát huy ý thức tự giác của toàn dân xây dựng
và thực hiện các chế tài, quy định, quy ước xã hội, bảo đảm công bằng về cơ hội
và thụ hưởng văn hoá. Khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và đời
sống văn hoá giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội, đặc biệt quan tâm đến
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, các khu công nghiệp... Khắc
phục bệnh thành tích, bệnh hình thức, thực hiện các chuẩn mực văn hoá gia đình
Việt Nam ấm no, hạnh phúc, tiến bộ và văn minh. Đề cao vai trò của gia đình
trong nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng. Phê phán và
ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan. Xây dựng và thực hiện
các chuẩn mực văn hoá trong lãnh đạo, quản
lý. Chú trọng xây dựng môi trường văn hoá công sở lành mạnh, dân chủ, đoàn
kết, nhân văn; đẩy lùi bệnh quan liêu, bè phái, mất đoàn kết, chủ nghĩa cơ hội
và thực dụng. Xây dựng văn hoá doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh.
Tập trung nâng cao chất lượng, hiệu
quả của các loại hình văn hoá, văn nghệ. Có kế hoạch, cơ chế và giải pháp xử lý
đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá, lịch sử
truyền thống dân tộc trong xây dựng con người, phát triển kinh tế - xã hội. Chú
trọng nâng cao giá trị tư tưởng, nghệ thuật, đồng thời bảo đảm tự do, dân chủ
trong sáng tạo văn học, nghệ thuật; khuyến khích những tìm tòi mới làm phong
phú thêm bản sắc văn hoá Việt Nam; hạn chế các lệch lạc, các sản phẩm chạy theo
thị hiếu tầm thường. Quan tâm, tạo điều kiện phát triển văn hoá, văn nghệ của
các dân tộc thiểu số. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các
hội văn học, nghệ thuật, tập hợp đông đảo văn nghệ sĩ tham gia tổ chức hội; khuyến
khích tự do sáng tạo, thực thi quyền tác giả.
Khẩn trương triển khai phát triển có
trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hoá và dịch vụ văn hoá trên cơ sở
xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hoá Việt Nam, vận dụng có hiệu quả
các giá trị và thành tựu mới của văn hoá, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế
giới. Gắn phát triển văn hoá với phát triển du lịch, phấn đấu đưa du lịch thành
một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ, gìn giữ tài nguyên văn hoá cho
các thế hệ mai sau. Xây dựng nền báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn
và hiện đại. Thực hiện tốt việc quy hoạch, sắp xếp hợp lý hệ thống báo chí, truyền
thông. Rà soát quy hoạch ngành xuất bản, in và phát hành theo hướng tinh gọn, chất
lượng, hiện đại hoá. Tăng cường quản lý và phát triển các loại hình truyền
thông, thông tin trên Internet. Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông
tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội,
thuần phong mỹ tục.
Tiếp tục đổi mới toàn diện nội dung
và phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước về văn hoá. Tăng cường đầu tư, khai thác và phát huy tối đa các nguồn lực
văn hoá đi đôi với đổi mới nội dung, phương thức quản lý, khắc phục tình trạng
đầu tư dàn trải, kém hiệu quả; tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm hiệu quả
đầu tư cao trong lĩnh vực văn hoá. Đổi mới, hoàn thiện các thiết chế văn hoá từ
Trung ương đến cơ sở, bảo đảm hiệu quả. Đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tham mưu trong lĩnh vực văn hoá, văn nghệ, nhất là
cán bộ chủ chốt thực sự am hiểu về văn hoá, có phẩm chất, bản lĩnh, năng lực
chuyên môn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Rà soát toàn bộ hệ thống các trường đào
tạo văn hoá, văn nghệ, đổi mới và hiện đại hoá quy trình, nội dung, phương thức đào tạo để trong 5 - 10 năm tới khắc
phục về cơ bản sự thiếu hụt đội ngũ
cán bộ làm công tác văn hoá. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn
hoá, xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hoá quốc tế. Tiếp
thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đồng
thời chủ động nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là
thanh, thiếu niên đối với các văn hoá phẩm ngoại lai độc hại; từng bước đưa văn
hoá Việt Nam đến với thế giới.
VIII- QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN
XÃ HỘI BỀN VỮNG, BẢO ĐẢM TIẾN BỘ, CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Nhận thức đầy đủ và bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội. Tăng cường quản lý phát
triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các
chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người.
Triển khai đồng bộ, toàn diện các mục tiêu kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội
và môi trường, trên cơ sở đó, đổi mới phân bổ nguồn lực hợp lý để nâng cao hiệu
quả phát triển xã hội. Xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát
triển xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững, hài hoà.
Trên cơ sở dự báo đúng xu hướng biến
đổi cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội ở nước ta trong
những năm tới, xây dựng các chính sách xã hội và quản lý phát triển xã
hội phù hợp, giải quyết hài hoà các quan hệ xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội và
xử lý kịp thời, hiệu quả các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội, bảo đảm trật
tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân.
Gắn chính sách phát triển kinh tế với chính sách xã hội, quan tâm lĩnh vực công
tác xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Đổi mới cơ chế, huy
động phân bổ và đa dạng hoá các nguồn lực thực hiện chính sách xã hội phù hợp
với nhu cầu, lợi ích của các tầng lớp dân cư, nhóm xã hội, bảo đảm bình đẳng về
cơ hội phát triển, nhất là với lao động khu vực phi chính thức.
Hoàn thiện và thực hiện tốt luật
pháp, chính sách đối với người có công trên cơ sở nguồn lực của Nhà nước và xã
hội, bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên
trong địa bàn cư trú. Cân đối ngân sách để tiếp tục thực hiện việc nâng mức trợ
cấp xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công, giải quyết căn bản chính sách đối với
người có công; nâng cấp các công trình "đền ơn đáp nghĩa".
Cải cách chính sách tiền lương theo
hướng tiệm cận với giá cả sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc độ
tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng năng suất lao động, bảo đảm nguyên tắc phân
phối theo lao động, tạo động lực nâng cao năng suất và hiệu quả làm việc. Chú
trọng nâng cao phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, tiếp tục bảo đảm những nhu cầu
cơ bản, thiết yếu của nhân dân về nhà ở, đi
lại, giáo dục, y tế, việc làm... Phát triển thị trường lao động, hướng
đến việc làm bền vững. Xác lập các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động phù
hợp với sự phát triển của thị trường, xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà, ổn
định, tiến bộ. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đưa lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, ưu tiên đưa lao động kỹ thuật có tay nghề
đi làm việc ở những thị trường có thu nhập cao, an toàn và tiếp tục phát huy
nguồn lực này sau khi về nước trên cơ sở bảo đảm cơ cấu, chất lượng nguồn nhân
lực trong nước.
Đổi mới chính sách bảo hiểm thất
nghiệp theo hướng tăng cường đào tạo và đào tạo lại cho người lao động để tham
gia hiệu quả vào thị trường lao động. Chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với
cơ cấu kinh tế, nâng cao tỉ trọng lao động
trong khu vực chính thức, tập trung giải quyết việc làm cho lao động khu vực phi chính thức, đặc biệt là
lao động nông nghiệp chuyển đổi ngành nghề. Phát triển hệ thống an sinh
xã hội toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân với các chính sách phòng ngừa, giảm
thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân, bảo đảm trợ giúp cho các nhóm đối
tượng yếu thế. Cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng dựa trên nguyên tắc
đóng - hưởng, chia sẻ - bền vững. Điều chỉnh chuẩn nghèo đa chiều, bảo đảm mức
sống tối thiểu và các dịch vụ cơ bản. Nâng cao chất lượng xây dựng nông thôn
mới, giảm nghèo bền vững và triển khai có hiệu quả chương trình phát triển kinh
tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2020 - 2030, bảo
đảm an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu
- nghèo giữa các vùng, miền, dân tộc.
Xây dựng và thực thi có hiệu quả
chính sách dân số và phát triển, phát huy lợi thế thời kỳ dân số vàng, đồng
thời chuẩn bị điều kiện thích ứng với già hoá dân số, nâng cao chất lượng dân
số, bảo đảm mức tăng dân số hợp lý và cân bằng giới tính khi sinh. Xây dựng và
thực hiện các chính sách về dinh dưỡng, an toàn thực phẩm, bảo vệ, chăm sóc, nâng
cao sức khoẻ và tầm vóc người Việt Nam, bảo đảm toàn dân đều được quản lý, bảo
vệ, chăm sóc sức khoẻ. Nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, bảo vệ và
chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Đổi mới cơ chế tài chính y tế, hệ thống quản
lý và cung cấp dịch vụ y tế. Phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ y
tế. Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, khắc phục tình trạng quá tải bệnh viện,
phát triển hình thức khám, chữa bệnh trực tuyến. Nâng cao năng lực, chủ động
phòng, chống dịch bệnh gắn với đổi mới toàn diện hệ thống y tế, nhất là y tế dự
phòng. Thực hiện đúng hướng, hiệu quả xã hội hoá trong lĩnh vực y tế, bảo đảm
bình đẳng giữa y tế nhà nước và y tế ngoài nhà nước, xây dựng, phát triển mô
hình bác sĩ gia đình, phát triển mạnh ngành công nghiệp dược và thiết bị y tế. Cần
có chiến lược phát triển, nâng cao tầm vóc người Việt Nam. Phát triển thể dục, thể
thao toàn dân để tăng cường sức khoẻ của nhân dân, làm cơ sở cho phát triển thể
dục, thể thao thành tích cao. Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội, bảo
đảm an toàn giao thông, an toàn thực phẩm và thuốc chữa bệnh.
IX- QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ ĐẤT ĐAI, TÀI NGUYÊN, BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG, CHỦ ĐỘNG THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Xây dựng chiến lược, hoàn thiện hệ
thống thể chế quản lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, trọng tâm là đất đai.
Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách về đất đai, nâng cao chất lượng công
tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, hiện đại hoá lĩnh vực địa chính, dịch
vụ công về đất đai. Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, bền vững, hiệu quả, tiết
kiệm trong sử dụng đất. Phát triển lành mạnh thị trường quyền sử dụng đất, chú trọng
thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp, kiểm soát tình trạng đầu cơ đất. Tiếp
tục đổi mới cơ chế, chính sách thúc đẩy tích tụ, tập trung đất nông nghiệp, khắc
phục tình trạng manh mún, tạo điều kiện thu hút đầu tư, ứng dụng cơ giới hoá và
công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng đất, ngăn
chặn tình trạng để đất hoang hoá, sử dụng đất lãng phí, tăng cường quản lý, khắc
phục suy thoái đất. Quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả đất công, đất có
nguồn gốc nông, lâm trường. Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc quản lý, sử
dụng đất, kịp thời phát hiện, xử lý dứt điểm các vi phạm, tranh chấp, lấn chiếm đất đai. Kiên quyết ngăn chặn, xử lý nghiêm
các hành vi tham nhũng, trục lợi, làm thất thoát nguồn thu ngân sách
liên quan đến đất. Hoàn chỉnh công tác điều tra cơ bản, đánh giá, xây dựng cơ
sở dữ liệu về tài nguyên đất, nước, rừng, biển, khoáng sản và đa dạng sinh học.
Xây dựng chiến lược an ninh nguồn
nước quốc gia. Hoàn thiện chính sách, pháp luật, nhất là cơ chế tài chính về
khai thác, sử dụng tài nguyên nước bảo đảm công bằng, hiệu quả, bền vững trên
nguyên tắc của kinh tế thị trường và quản lý tổng hợp nguồn nước, bảo đảm
nghiêm ngặt an ninh nguồn nước, nhất là nước sạch cho sinh hoạt.
Xây dựng hệ thống và cơ chế giám sát
tài nguyên, môi trường và biến đổi khí hậu, dự báo, cảnh báo thiên tai, ô nhiễm
và thảm hoạ môi trường, dịch bệnh. Có kế hoạch khắc phục căn bản tình trạng huỷ
hoại, làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường của các cơ sở
sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị. Cải thiện chất lượng môi trường và
điều kiện sống của nhân dân. Tập trung xử lý chất thải, thúc đẩy tái sử dụng, tái
chế và sản xuất thu hồi năng lượng từ chất thải gắn với hình thành chuỗi sản
xuất tiếp nối, liên tục. Huy động các nguồn lực, thực hiện đồng bộ các giải
pháp công trình và phi công trình để bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi
khí hậu. Nâng cao khả năng chống chịu, nâng cao năng lực nghiên cứu, giám sát
biến đổi khí hậu, dự báo và cảnh báo thiên tai, năng lực chủ động phòng, tránh,
giảm nhẹ, thích ứng với biến đổi khí hậu. Chấn chỉnh công tác bảo vệ, thanh
tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực quản lý tài nguyên, môi
trường, phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai và thích ứng với biến đổi
khí hậu. Tăng cường kiểm soát các hoạt động khai thác tài nguyên, các ngành, doanh
nghiệp dựa nhiều vào tài nguyên, các nguồn gây ô nhiễm, nguồn phát thải khí nhà
kính. Đấu tranh, ngăn chặn và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật về
tài nguyên và môi trường, đẩy lùi tình trạng ô nhiễm môi trường, suy thoái
tài nguyên và suy giảm đa dạng sinh học.
Chủ động, tích cực hợp tác quốc tế
trong việc chia sẻ thông tin, phối hợp
nghiên cứu, quản lý, khai thác và sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn
tài nguyên, bảo đảm an ninh sinh thái, an ninh môi trường, an ninh nguồn nước, an
ninh lương thực, thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng thời giảm thiểu các tác
động bất lợi từ quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Thực hiện các cam
kết quốc tế, góp phần cùng cộng đồng quốc tế ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo
vệ hệ sinh thái toàn cầu. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật, nghiên cứu cơ bản và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về tài
nguyên, môi trường, phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí
hậu.
X- TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG, AN NINH, BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VIỆT NAM
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp
của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh
thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền
văn hoá và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định
chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người, xây dựng xã hội trật tự, kỷ
cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường
xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá
Việt Nam của các thế lực thù địch. Phải coi an ninh, an toàn là một trong những
yếu tố hàng đầu trong cuộc sống của người dân. Phải chuyển mạnh sang việc
"chủ động phòng ngừa" là chính. Ứng phó kịp thời, hiệu quả với các đe
doạ an ninh phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống
thiên tai, dịch bệnh. Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ
sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết
các tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên
quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc.
Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an
ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ thế trận lòng dân trong nền quốc phòng toàn
dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng
toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp
chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại với quốc phòng,
an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội và đối ngoại. Cụ thể hoá và thực hiện có hiệu quả quan
hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, chiến lược bảo vệ Tổ quốc;
trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong các vùng, miền, địa bàn
chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cụ thể.
Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó có một
số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; vững mạnh về
chính trị, có chất lượng tổng hợp và có sức mạnh chiến đấu cao, tuyệt đối trung
thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong mọi tình huống. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân
tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển. Quan tâm xây dựng
lực lượng trị an cơ sở đủ mạnh đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ giữ gìn trật tự trị
an cơ sở. Xây dựng, củng cố đường biên giới trên bộ hoà bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển; nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các lực lượng làm nhiệm
vụ ở biên giới, biển, đảo.
Xây dựng, phát triển nền công nghiệp
quốc phòng, an ninh hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng và củng
cố các tuyến phòng thủ biên giới, biển, đảo; có cơ chế huy động nguồn lực từ
địa phương và nguồn lực xã hội cho xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh tại
các khu vực phòng thủ. Chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống.
Tiếp tục nghiên cứu, phát triển lý
luận về quốc phòng, quân sự, an ninh, nghệ thuật quân sự, nghệ thuật bảo vệ an
ninh quốc gia, an ninh xã hội trong tình hình mới. Nâng cao năng lực dự báo
chiến lược, giữ vững thế chủ động chiến lược; không để bị động, bất ngờ trong
mọi tình huống. Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, bồi
dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ, công chức và cho toàn dân, bảo
đảm phù hợp với từng đối tượng. Chú trọng giáo dục, thống nhất, nâng cao nhận
thức về đối tác và đối tượng; nắm vững đường lối, quan điểm, yêu cầu nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần
cảnh giác cách mạng trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Quan tâm chăm
lo thực hiện tốt chính sách đối với lực lượng vũ trang và chính sách hậu phương
quân đội, công an. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, nâng cao chất lượng thu
hút, đào tạo nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Tiếp tục triển khai thực hiện toàn
diện, đồng bộ Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân
sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược an ninh mạng quốc gia và
các chiến lược quốc phòng, an ninh chuyên ngành khác. Bổ sung, hoàn thiện hệ
thống luật pháp, cơ chế, chính sách về quốc
phòng, an ninh và liên quan đến quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới.
Chủ động, tăng cường hợp tác và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế về quốc
phòng, an ninh.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của
Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an
ninh. Nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả
công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về
chính trị, làm nòng cốt trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới. Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và người dân
đối với nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
XI- TRIỂN KHAI ĐỒNG BỘ, SÁNG TẠO, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG VÀ
TÍCH CỰC HỘI NHẬP QUỐC TẾ TOÀN DIỆN, SÂU RỘNG
Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ đối ngoại. Bảo đảm trên hết và trước hết lợi ích quốc gia -
dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp
tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin
cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống
nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối
ngoại và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tiếp tục nâng
cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế vì lợi ích quốc gia - dân
tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục phát huy vai
trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình,
ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị
thế và uy tín của đất nước. Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba
trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Đẩy mạnh đối ngoại song phương và
nâng tầm đối ngoại đa phương. Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt
Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là
ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Công và các khuôn khổ
hợp tác khu vực và quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm
chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể. Coi trọng phát
triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng; chủ động,
tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng đoàn kết, vững
mạnh, giữ vững vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc an ninh khu vực. Đẩy
mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt
là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác, tạo
thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế
đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết,
kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế
lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước. Tiếp tục thúc đẩy
giải quyết các vấn đề an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên biển trên cơ
sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
Củng cố đường biên giới hoà bình, an ninh, hợp tác và phát triển; giải quyết
các vấn đề còn tồn tại liên quan đến đường biên giới trên bộ với các nước láng
giềng.
Chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; hội
nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân
tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Gắn kết chặt chẽ quá trình
chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng với việc nâng cao sức
mạnh tổng hợp, huy động tiềm năng của toàn xã hội; đổi mới, hoàn thiện thể chế
trong nước, nâng cao năng lực tự chủ, cạnh tranh và khả năng thích ứng của đất
nước. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu
quả hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực xã hội, môi trường, khoa học và
công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hoá, du lịch và các lĩnh vực khác. Tích cực
triển khai các cam kết khu vực và quốc tế, lồng ghép với các chiến lược, chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển
kinh tế - xã hội. Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò
của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính
trị - kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các hiệp định
thương mại đã ký kết.
Tăng cường công tác nghiên cứu, dự
báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, không để bị động, bất ngờ. Đổi mới nội
dung, phương pháp, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại, bảo hộ
công dân, triển khai toàn diện và mạnh mẽ hơn công tác người Việt Nam ở nước
ngoài. Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi
mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ
động thích ứng trước chuyển biến của tình hình; tăng cường cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các kênh và các cơ quan đối
ngoại, đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc
tế.
XII- PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC, DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN
1. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng
viên, công chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân. Giải quyết hài hoà các quan
hệ lợi ích trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân
dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Phát triển giai cấp công nhân cả về
số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng
cho giai cấp công nhân. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nhà ở và phúc lợi
xã hội cho công nhân, người lao động; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân. Đổi mới tổ chức và hoạt động
của công đoàn phù hợp với cơ cấu lao động, nhu cầu, nguyện vọng của công
nhân và yêu cầu hội nhập quốc tế; làm tốt vai trò đại diện cho quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của người lao động, tập thể người lao động. Định hướng, quản
lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp
ngoài tổ chức công đoàn hiện nay.
Phát huy vai trò chủ thể của nông
dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, xây
dựng nông thôn mới. Gắn xây dựng giai cấp nông dân với phát triển nông nghiệp
và quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá. Có chính sách hợp lý để chuyển lao
động nông thôn sang các ngành phi nông nghiệp. Đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới
gắn với đô thị hoá nông thôn, tạo điều kiện để cư dân nông thôn trở thành cư
dân đô thị mà không dẫn đến di cư quy mô lớn. Huy động và phát huy mọi nguồn
lực từ nông dân, nông thôn cùng với các nguồn lực khác để phát triển nền nông
nghiệp hiện đại, nông dân khá giả, nông thôn văn minh.
Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng
lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình
hình mới. Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách
nhiệm trong nghiên cứu khoa học. Ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng, môi trường
làm việc, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của trí thức. Trọng dụng, đãi ngộ thoả
đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ
chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà
khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan
trọng. Thực sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản
biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức.
Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn
mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn
mực văn hoá, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi. Tạo môi
trường, điều kiện thuận lợi cho doanh nhân cống hiến tài năng, kinh doanh lành
mạnh. Tôn vinh, khen thưởng kịp thời những doanh nhân có nhiều đóng góp xứng
đáng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khuyến khích doanh nhân thực
hiện trách nhiệm xã hội và tham gia phát triển xã hội. Tạo môi trường thuận lợi
cho khởi nghiệp sáng tạo, phát triển sản xuất kinh doanh.
Tăng cường giáo dục lý tưởng cách
mạng, đạo đức, lối sống văn hoá, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi
dưỡng hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất
nước, với xã hội; xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn
luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài
hoà cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ cho thế hệ trẻ. Tạo động
lực cho thanh niên xung kích trong học tập, lao
động sáng tạo, khởi nghiệp, làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện
đại, phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chăm lo nuôi
dưỡng, giáo dục, bảo vệ thiếu niên, nhi đồng; dành những điều kiện tốt nhất, sự
chăm lo chu đáo nhất cho trẻ em - tương lai của đất nước.
Nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực nữ đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Thực hiện
các chương trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kỹ năng cho phụ nữ có
hoàn cảnh khó khăn, phụ nữ vùng dân tộc thiểu số, miền núi. Hoàn thiện và thực
hiện tốt luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em và bình đẳng giới.
Phát huy tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các
tầng lớp phụ nữ. Kiên quyết xử lý nghiêm theo pháp luật các tệ nạn xã hội, các
hành vi bạo lực, mua bán, xâm hại phụ nữ, trẻ em.
Phát huy tính tích cực chính trị -
xã hội của cựu chiến binh, cán bộ công an hưu trí trong xây dựng và bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Động viên cựu chiến
binh, công an hưu trí giúp nhau làm kinh tế, cải
thiện đời sống. Tăng cường vai trò của hội viên trong giáo dục lòng yêu nước,
truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ, góp phần xây dựng và củng cố cơ sở chính
trị, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao
động, học tập của người cao tuổi trong xã hội,
cộng đồng và gia đình. Tiếp tục xây dựng gia đình kiểu mẫu "ông bà,
cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền, vợ chồng hoà thuận, anh chị em đoàn kết, thương
yêu nhau". Bảo trợ, giúp đỡ người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa.
Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý
hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế,
văn hoá, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng tính đặc
thù của từng vùng dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính
sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng
bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa
chiều, bền vững. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu
trong vùng dân tộc thiểu số. Chống kỳ thị dân tộc, dân tộc cực đoan, dân tộc
hẹp hòi; nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ
chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, đóng góp tích cực cho
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt
động theo quy định pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận.
Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn
giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước
ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hội nhập xã
hội nước sở tại. Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du
học sinh... Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hoá dân
tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc.
Làm tốt công tác thông tin tình hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp
với lợi ích quốc gia - dân tộc, có đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tăng cường vai trò nòng cốt chính
trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong
trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng
nông thôn mới, đô thị văn minh", thực hành dân chủ, xây dựng đồng thuận xã
hội. Đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao trách
nhiệm của đội ngũ cán bộ Mặt trận và đoàn thể nhân dân, hướng mạnh về cơ sở, địa
bàn dân cư. Làm tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước, tăng cường đối ngoại nhân dân. Phát huy sức mạnh nhân dân trong thế trận lòng
dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân
Tiếp tục cụ
thể hoá, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc
biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả trên thực tế phương châm
"Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng".
Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm
nòng cốt để nhân dân làm chủ. Cấp uỷ, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống
chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực hành
dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội. Đảng và Nhà nước ban hành đường
lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn
trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị
trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ
quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội,
trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức; động viên nhân dân
tham gia phát triển kinh tế; quản lý và tự quản xã hội; xây dựng, quản lý, thụ
hưởng văn hoá; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, ngoại giao
nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế
trận lòng dân. Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân
chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm
phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân.
XIII- XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ
thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn của các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên
cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước.
Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch,
ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp
làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền
vững.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt
động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đổi mới phương thức, nâng cao
chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền, tăng tính
chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức
năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối
cao. Tiếp tục đổi mới quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, cơ chế
giám sát, lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc
hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế
giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội
và nhân dân. Bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu, nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội,
tăng hợp lý số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách; giảm số lượng đại biểu
công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp.
Xây dựng nền hành chính nhà nước phục
vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững
mạnh, công khai, minh bạch. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ
theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa
ngành, đa lĩnh vực; phát huy đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành
pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội, tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng
thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; tăng cường năng lực dự báo và khả
năng thích ứng chính sách trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa Chính
phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương;
khắc phục triệt để chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; bảo đảm quản lý
nhà nước thống nhất, đồng thời phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tinh thần trách
nhiệm của từng cấp, từng ngành. Nâng cao chất lượng dịch vụ công; tiếp tục sắp
xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, bảo đảm
chất lượng, hiệu quả.
Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt
Nam chuyên nghiệp, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Xây dựng
và thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp giai đoạn mới theo hướng tiếp tục đổi
mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của
toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án
và các cơ quan, tổ chức khác tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp; giải quyết
kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định; phòng
ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật.
Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính
quyền địa phương phù hợp với đặc điểm ở nông thôn, đô thị, hải đảo… theo luật
định; thực hiện và tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhằm xây dựng và
vận hành các mô hình quản trị chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả. Gắn kết và đổi mới tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp. Cải cách phân cấp ngân sách nhà nước theo hướng
phân định rõ ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, bảo đảm vai trò chủ
đạo của ngân sách Trung ương, nâng cao tính chủ động, tự chủ của ngân sách địa
phương.
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức có đủ phẩm chất, năng lực phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước.
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách,
đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục
vụ phát triển; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến
khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì
lợi ích chung. Đồng thời, có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người
không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, kỷ luật, đạo đức công vụ, đạo đức
nghề nghiệp, không còn uy tín đối với nhân dân.
Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật
với tổ chức thi hành pháp luật. Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý
nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu
quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật; cải
cách thủ tục hành chính; kiện toàn tổ chức, tinh giảm hợp lý đầu mối, bỏ cấp
trung gian, tinh giản biên chế. Thúc đẩy xây dựng chính quyền điện tử, tăng
cường sự kết nối, trao đổi thông tin thường xuyên giữa chính quyền các cấp, giữa
chính quyền với người dân và doanh nghiệp.
XIV- XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG
1. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, tổ chức và cán bộ
Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp
với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Kiên định các nguyên
tắc về xây dựng Đảng. Nâng cao bản lĩnh, năng lực dự báo của Đảng trong
hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng
phát triển của thời đại. Kịp thời thể chế, cụ thể hoá, triển khai đúng đắn, hiệu
quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, khắc
phục sự yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Nâng cao lập trường,
bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, tính chiến đấu của cấp uỷ, tổ chức đảng
và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt
các cấp, cán bộ cấp chiến lược. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, thực
hiện nghiêm các nguyên tắc, cơ chế, quy định của Đảng, thực hành dân chủ gắn
liền với tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng.
Coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng
chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo
dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Nắm chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các
vấn đề tư tưởng trong Đảng, trong xã hội. Chú trọng nắm bắt, định hướng dư luận
xã hội, bảo đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận cao trong xã hội.
Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về
đường lối đổi mới cũng như lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Gắn kết tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận, định
hướng chính sách. Thực hiện nghiêm quy định dân chủ trong nghiên cứu lý luận
chính trị, tạo môi trường dân chủ, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí
tuệ của các tổ chức và cá nhân. Chú trọng cập nhật kết quả tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận; sớm kết luận những vấn đề lý luận đã chín, đã rõ, phát triển, hoàn
thiện đường lối, chủ trương xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục đổi mới mô hình
tổ chức, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các
cơ quan nghiên cứu lý luận. Từng bước đưa hoạt động trao đổi lý luận của Đảng
ta với một số đảng cầm quyền, đảng tham chính ở một số nước đi vào chiều sâu, hiệu
quả. Đầu tư thích đáng cho việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận; có
chế độ, chính sách thoả đáng nhằm thu hút, trọng dụng các chuyên gia đầu ngành.
Tiếp tục đổi
mới việc học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Đổi mới căn bản chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo tinh thần khoa học,
thực tiễn, sáng tạo và hiện đại; đưa việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật
kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là
cấp chiến lược đi vào nền nếp, nhất quán từ Trung ương đến cơ sở, phù hợp với
từng đối tượng, chú trọng chất lượng, hiệu quả, siết chặt kỷ luật, kỷ cương.
Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu
tranh phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện
"tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.
Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức. Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên.
Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, thực hiện thường xuyên, sâu, rộng, có hiệu
quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với
việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Thực hiện nghiêm các quy định về trách
nhiệm nêu gương, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, trước hết là Uỷ viên Bộ
Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương. Đảng viên tự
giác nêu gương để khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu, tạo
sự lan toả, thúc đẩy các phong trào cách mạng. Coi trọng kiểm tra, giám sát
trong Đảng kết hợp với phát huy vai trò giám sát của cơ quan dân cử, của Mặt
trận Tổ quốc, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên thực hiện các quy
định nêu gương.
Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các
giá trị đạo đức cách mạng cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hoá
tốt đẹp của dân tộc. Xây dựng các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ, đảng
viên tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày. Đẩy mạnh giáo dục
đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách
nhiệm của mình, luôn vững vàng trước khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ
bởi vật chất, tiền tài, danh vọng. Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và thực
hành đạo đức cách mạng. Tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản
đạo đức, phi đạo đức. Cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức, tạo ảnh hưởng
lan toả trong Đảng và ngoài xã hội.
Đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của
Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với
đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng,
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện mô
hình tổ chức của hệ thống chính trị. Tổng kết các mô hình thí điểm về tổ chức
bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị, khắc phục sự chồng chéo và những bất hợp
lý trong tổ chức của Đảng và tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
Tiếp tục đổi
mới, hoàn thiện tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Rà soát, sửa đổi,
bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của
các loại hình tổ chức cơ sở đảng phù hợp với tiến trình đổi mới, sắp xếp tinh
gọn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị. Nâng cao vai trò, trách
nhiệm giáo dục, quản lý, rèn luyện, kiểm tra, giám sát đảng viên; đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động, sinh hoạt của chi bộ. Thực hiện chủ trương bí thư cấp uỷ đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn
vị, cơ bản thực hiện mô hình bí thư
cấp uỷ đồng thời là chủ tịch Hội đồng nhân dân các cấp, bí thư cấp uỷ là chủ tịch Uỷ ban nhân dân ở
những nơi có điều kiện, bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng dân phố
hoặc trưởng ban công tác mặt trận.
Tăng cường xây dựng Đảng về cán bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là
cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Hoàn thiện
thể chế, quy định về công tác cán bộ, tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí, cơ chế đánh giá cán bộ. Xây dựng
đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có
đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, luôn đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,
dám đột phá, dám chịu trách nhiệm, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương
mẫu, là hạt nhân đoàn kết.
Nâng cao
chất lượng đảng viên. Đổi mới công tác đánh giá, xếp loại đảng viên bảo đảm
thực chất. Phát hiện, quy hoạch, bồi dưỡng, phát huy vai trò những đảng viên ưu
tú, có triển vọng, chuẩn bị nguồn cán bộ chủ chốt các cấp. Coi trọng công tác
phát triển đảng viên, bảo đảm số lượng, chất lượng. Phát hiện, bồi dưỡng, kết
nạp vào Đảng những thanh niên ưu tú trưởng thành trong phong trào lao động, học
tập, trong lực lượng vũ trang, tạo nguồn cán bộ cho hệ thống chính trị các cấp.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên. Sàng
lọc, kiên quyết đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Xây dựng quy
định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và
quản lý cán bộ; thực hiện tốt quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác
cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền; xử lý nghiêm minh, đồng bộ kỷ luật đảng, kỷ
luật hành chính và xử lý bằng pháp luật đối với cán bộ có vi phạm, kể cả khi đã
chuyển công tác hoặc nghỉ hưu.
Tiếp tục
hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn
ý với công việc. Coi trọng và làm tốt công tác bảo vệ cán bộ, bảo vệ chính trị
nội bộ. Kiên quyết phòng, chống các biểu hiện bè phái, "lợi ích nhóm"
và lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng để xuyên tạc sự thật, kích động,
gây rối, chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ.
2. Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát,
kỷ luật đảng
Tiếp tục
xây dựng, hoàn thiện các quy định, quy chế nhằm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, nâng
cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Cải tiến, đổi
mới phương pháp, quy trình, kỹ năng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng
bảo đảm khách quan, dân chủ, khoa học, đồng bộ, thống
nhất, thận trọng, chặt chẽ, khả thi, trong đó tập trung vào các cơ chế, biện pháp chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn
chặn khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên; có chế tài để
phòng ngừa, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm kỷ luật đảng.
Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; công tác hướng
dẫn, chỉ đạo của uỷ ban kiểm tra cấp trên đối với cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban
kiểm tra cấp dưới trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Triển khai quyết
liệt, thường xuyên, toàn diện, đồng bộ công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
đảng, phục vụ thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
trong sạch, vững mạnh. Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng
đầu, cán bộ chủ chốt ở những nơi dễ xảy ra vi
phạm, nơi có nhiều bức xúc nổi cộm, dư luận quan tâm; xử lý kịp thời, kiên
quyết, triệt để, đồng bộ, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Tăng
cường quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản
lý chủ chốt các cấp để kịp thời phát hiện, ngăn chặn từ xa, từ đầu, giải quyết
từ sớm, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng.
Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng cấp trên đối với cấp dưới.
Kết hợp chặt chẽ
và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với giám sát, thanh
tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ
pháp luật. Tăng cường phối hợp giữa giám sát của Đảng với giám sát của Nhà nước
và giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội để tăng cường
sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát, kiểm tra, tránh
chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực, không hiệu quả. Tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp uỷ trong việc thể
chế hoá và thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các chủ trương, nghị
quyết, chỉ thị, quy định của Đảng. Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác cán
bộ, gắn với kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền. Phát huy vai trò
giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội
và nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
3. Tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây
dựng Đảng
Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong
nhận thức, hành động của các cấp uỷ đảng, hệ thống chính trị về công tác dân
vận; có cơ chế phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới. Đổi mới nội dung, phương
thức tuyên truyền, vận động, sử dụng có hiệu quả các phương tiện thông tin đại
chúng, mạng xã hội theo hướng thiết thực, tăng cường đồng thuận, củng cố niềm
tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, phát huy sức mạnh to lớn của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an
ninh.
Nêu cao tinh thần trách nhiệm của cả
hệ thống chính trị, nhất là của chính quyền các cấp đối với công tác dân vận.
Phát huy vai trò, sự tham gia của nhân dân trong xây dựng, ban hành tổ chức
thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên cơ
sở bảo đảm hài hoà lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân, giữa các
vùng, miền; quan tâm đến các đối tượng yếu thế trong xã hội. Tiếp tục hoàn
thiện, cụ thể hoá, thực hiện tốt cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ" và phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
dân giám sát, dân thụ hưởng". Tổ chức một cách có hiệu quả, thực chất việc
nhân dân tham gia giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong
hệ thống chính trị, phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Lấy kết
quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để
đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên.
Tiếp tục hoàn thiện và thực thi quy
định về đạo đức công vụ trong công tác dân vận, phát huy vai trò gương mẫu của
cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu, cán bộ, công
chức, viên chức, lực lượng vũ trang trực
tiếp giao tiếp với nhân dân. Kiên quyết phê phán, xử lý nghiêm minh
những cán bộ, công chức, viên chức thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm, quan liêu,
hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu dân. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở. Sâu
sát cơ sở, tăng cường đối thoại, tiếp xúc với nhân dân, lắng nghe tâm tư, kịp
thời giải quyết nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân.
Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước,
thực hiện tốt phong trào thi đua "Dân vận khéo", tuyên truyền, biểu
dương, nhân rộng các mô hình, điển hình về công tác dân vận. Rà soát bổ sung và
thực hiện Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị; xây dựng cơ chế phối
hợp giữa chính quyền, các cơ quan, tổ chức
với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp; tích cực đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện
các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng về công tác dân vận.
4. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn
chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động
mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn. Kết hợp
chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm
minh, kịp thời những hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay
cho tham nhũng, can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng, lãng phí; không có
vùng cấm, không có ngoại lệ; lấy phòng ngừa là chính. Phát huy sức mạnh tổng
hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân; thực hiện đồng bộ các biện pháp
chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự. Gắn phòng, chống
tham nhũng, lãng phí với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng, củng cố hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả
công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự tự
giác, thống nhất cao về ý chí và hành động trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, trước hết là sự gương mẫu, quyết
liệt của người đứng đầu cấp uỷ, cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương; kiên trì giáo dục, rèn luyện đức tính liêm
khiết, xây dựng văn hoá tiết kiệm, không tham nhũng, lãng phí trước hết trong
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.
Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện các
quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội và phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, nhất là các quy định về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm
người đứng đầu, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch; cơ
chế bảo vệ, khuyến khích mạnh mẽ người đứng đầu kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử
lý tham nhũng và cơ chế bảo vệ, khuyến khích người tố cáo, tích cực đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí, đồng thời xử lý nghiêm những người lợi dụng chống
tham nhũng, lãng phí để vu khống, gây mất đoàn kết nội bộ; kiểm soát có hiệu
quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, trước hết là cán bộ lãnh
đạo, quản lý; thực hiện chế độ thanh toán không dùng tiền mặt.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án, phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng, lãng
phí; nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng; kịp thời xử lý, thay thế cán
bộ lãnh đạo, quản lý khi có biểu hiện tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm những
cán bộ nhũng nhiễu, vòi vĩnh, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp. Tiếp
tục kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, bảo đảm liêm chính, trong sạch, nâng cao
năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị có chức năng phòng, chống
tham nhũng và các cơ quan tham mưu cho cấp uỷ lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng,
chống tham nhũng. Từng bước mở rộng phạm vi phòng, chống tham nhũng ra khu vực
ngoài nhà nước, mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về phòng, chống
tham nhũng. Phát huy vai trò, trách nhiệm của
các cơ quan và đại biểu dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
chính trị - xã hội, nhân dân và cơ quan truyền thông, báo chí trong đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí; từ đó nâng cao hiệu quả phát hiện và xử lý
tham nhũng, lãng phí.
Tiếp tục đẩy
mạnh cải cách chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập và có chính sách nhà ở, bảo đảm cuộc sống để cán bộ, công
chức, viên chức yên tâm công tác.
5. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị trong điều kiện mới
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng Cương
lĩnh, chiến lược, các chủ trương, chính sách lớn; lãnh đạo thể chế hoá các quan
điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật; lãnh đạo xây
dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ; lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính
sách, Hiến pháp và pháp luật; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng
lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Các tổ chức của Đảng và đảng
viên, nhất là tổ chức, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước vừa phải
gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, vừa phải nêu cao vai trò tiên phong
trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội, bảo đảm
sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng, đồng thời tôn trọng nguyên
tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, phát huy mạnh mẽ vai trò, tính tự chủ, năng động, sáng tạo của Mặt trận và
các tổ chức chính trị - xã hội.
Tiếp tục cụ thể hoá phương thức lãnh
đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ở tất cả các cấp
bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ
thể. Quy định cụ thể Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân
dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những
quyết định của mình; về quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu và mối quan
hệ giữa tập thể cấp uỷ, tổ chức đảng với người đứng đầu, bảo đảm thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách. Phát huy vai trò, trách nhiệm, tính chủ động của
người đứng đầu và cơ chế xử lý đối với người đứng đầu khi vi phạm. Đẩy mạnh
việc phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ việc
thực hiện phân cấp, phân quyền, chống tha hoá quyền lực; có cơ chế để các địa
phương phát huy quyền chủ động, sáng tạo, gắn với đề cao trách nhiệm, đồng thời
bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý thống nhất của Trung ương.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh
đạo, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thông suốt, kịp thời, đúng đắn của cấp uỷ, tổ
chức đảng các cấp, làm gương, thúc đẩy đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của các tổ chức, cơ quan trong hệ thống chính trị. Đổi mới
phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ
Trung ương tới cơ sở; xây dựng và thực hiện phong cách làm việc khoa học, tập
thể, dân chủ, trọng dân, gần dân, hiểu dân, vì dân, bám sát thực tiễn, chịu khó
học hỏi, nói đi đôi với làm.
Đổi mới, nâng cao chất lượng, xây
dựng, ban hành nghị quyết của Đảng. Chỉ ban hành nghị quyết khi thật sự cần
thiết. Nghị quyết phải thiết thực, ngắn gọn, khả thi. Tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo kiên quyết, giám sát chặt chẽ việc cụ thể hoá, thể chế hoá, tổ chức thực
hiện nghị quyết; coi trọng kiểm tra, giám sát, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc
thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả. Đẩy mạnh
cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Đảng.
Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đổi mới nội dung, phương
thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới.
XV- NHỮNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM, CÁC ĐỘT PHÁ CHIẾN
LƯỢC TRONG NHIỆM KỲ ĐẠI HỘI XIII
1. Những nhiệm vụ trọng tâm
(1) Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Xây
dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh
phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "lợi ích nhóm",
những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá". Xây dựng
đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang
tầm nhiệm vụ. Củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế
độ xã hội chủ nghĩa.
(2) Đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển
phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển đồng
bộ và tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các
loại hình sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến
bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh
tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế;
huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát
triển kinh tế nhanh và bền vững.
(3) Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp
tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng
cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững
môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước.
(4) Khơi dậy khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt
Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; thực hiện tốt
chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến
mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng
cao chất lượng cuộc sống, hạnh phúc của nhân dân.
(5) Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp
luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền
làm chủ của nhân dân; đồng thời tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước
hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, kỷ cương, thực hành dân chủ xã hội chủ
nghĩa của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính
trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại đoàn kết toàn dân
tộc.
(6) Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý,
hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực
triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu.
2. Các đột phá chiến lược
Ba đột phá chiến lược do Đại hội lần
thứ XI, XII của Đảng xác định có ý nghĩa, giá trị lâu dài, vẫn còn nguyên giá
trị và sẽ được cụ thể hoá phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Trong 5 năm
tới, để phù hợp với điều kiện, yêu cầu mới cần tập trung vào các đột phá cụ thể
sau đây:
(1) Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tập trung ưu tiên
hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ
chế, chính sách nhằm tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh,
công bằng; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát
triển, nhất là đất đai, tài chính; thực hiện phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu
quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực.
(2) Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu
tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực
then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo
dục, đào tạo; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học
- công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc, phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
(3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế
và xã hội; ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao
thông, thích ứng với biến đổi khí hậu; chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn
thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã
hội số.
*
* *
Để thực hiện tốt các mục tiêu, định
hướng, nhiệm vụ trên đây, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phải chủ động, nhạy bén nắm chắc thời cơ, quyết
vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, hoàn
thiện thể chế, khơi dậy ý chí, tiềm năng, nguồn lực cho phát triển. Phát huy
mạnh mẽ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc và giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam; vai
trò của khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo chính là nguồn động lực mới, to
lớn để đất nước ta phát triển nhanh, bền vững hơn. Với hướng đi đúng đắn, khát
vọng phát triển mãnh liệt và quyết tâm chính trị cao, đất nước ta nhất định sẽ
lập nên kỳ tích phát triển mới vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, cùng
tiến bước, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm
nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc ta.
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG