BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
KHÓA XII
*
|
|
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2020
|
DỰ THẢO BÁO CÁO TỔNG KẾT THỰC HIỆN CHIẾN
LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 10 NĂM 2011
- 2020, XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 10 NĂM 2021 -
2030
-----
Phần
thứ nhất
KẾT
QUẢ THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 2011 - 2020
Bước vào thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 10 năm 2011 - 2020, tình hình thế giới, khu vực
diễn biến phức tạp hơn dự báo. Khủng hoảng nợ công diễn ra trầm trọng hơn ở
nhiều quốc gia, kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn; rủi ro trên thị trường tài
chính, tiền tệ quốc tế gia tăng; nhiều nước tăng cường bảo hộ thương mại trong
những năm gần đây. Khoa học, công nghệ phát triển nhanh, Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư và kinh tế số trở thành một trong những xu hướng phát triển chủ yếu
của thời đại. Vào năm cuối kỳ Chiến lược đã xảy ra đại dịch
Covid-19 trên toàn cầu ảnh hưởng rất nghiêm trọng, chưa từng có trong nhiều thập
kỷ, kinh tế thế giới rơi vào tình trạng suy thoái, hậu quả kéo dài nhiều năm.
Ở trong
nước, những năm đầu thời kỳ Chiến lược, nền kinh tế tiềm ẩn nhiều rủi ro, lạm
phát cao, nợ công tăng nhanh, tỉ lệ nợ xấu
cao; sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Tác động, ảnh hưởng từ bên
ngoài tăng, cạnh tranh ngày càng gay gắt, trong khi độ mở của nền kinh tế cao,
sức chống chịu còn hạn chế. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh diễn biến
phức tạp hơn. Đặc biệt trong năm 2020, đại dịch
Covid-19 đã ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến hầu hết các ngành, lĩnh vực, các hoạt
động kinh tế, xã hội bị ngưng trệ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Trước tình hình
đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã chung sức, đồng lòng, nỗ lực vượt bậc,
quyết liệt, kịp thời, nhất là trong năm 2020 tập trung vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa duy trì, phục hồi, phát triển kinh
tế - xã hội, vượt qua khó khăn, thách thức, huy động sự vào cuộc
của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước, thực
hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra và đạt được
nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực.
I- KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Về kinh tế vĩ mô
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức độ khá cao. Giai đoạn 2011 - 2015, tốc
độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt bình quân 5,9%/năm, giai đoạn 2016 - 2019 tăng trưởng đạt
6,8%/năm, năm 2020 do dịch bệnh Covid-19 tốc độ tăng trưởng ước đạt trên 2%, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt khoảng 5,9%/năm.
Tính chung cả thời kỳ Chiến lược 2011 - 2020, tăng
trưởng GDP dự kiến đạt khoảng 5,9%/năm, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới.
Quy mô GDP tăng gấp 2,4 lần, từ 116 tỉ USD năm 2010 lên 268,4 tỉ USD vào năm 2020.
GDP bình quân đầu người tăng từ 1.331 USD năm 2010 lên khoảng 2.750 USD năm
2020.
Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động được nâng lên rõ
rệt. Tăng trưởng kinh tế giảm
dần phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, mở rộng tín dụng; từng bước dựa vào
ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tỉ trọng giá trị xuất khẩu
sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá tăng từ 19% năm
2010 lên khoảng 50% năm 2020. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP)
vào tăng trưởng tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011 - 2015 lên 45,2% giai đoạn 2016 - 2020, tính chung
10 năm 2011 - 2020 đạt 39,0%, vượt mục
tiêu Chiến lược đề ra (35%). Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn
2011 - 2015 là 4,3%/năm, giai đoạn 2016 - 2020 là 5,8%/năm. Hiệu quả đầu tư
được nâng lên; hệ số ICOR giảm từ gần 6,3 giai đoạn 2011 - 2015 xuống còn
khoảng 6,1 giai đoạn 2016 - 2019.
Kinh tế vĩ mô ổn
định vững chắc hơn, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, các cân đối lớn của nền
kinh tế được cải thiện đáng kể. Thực hiện chủ động,
linh hoạt, đồng bộ, phối hợp chặt chẽ nhiều chính sách, giải pháp ổn định kinh
tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
bình quân giảm từ 18,6% năm 2011 xuống ổn định ở mức khoảng 4%/năm giai đoạn
2016 - 2020. Lạm phát cơ bản giảm từ 13,6% năm 2011 xuống khoảng 2,5%
năm 2020. Thị trường tiền tệ, ngoại hối cơ bản ổn định; bảo đảm
vốn tín dụng cho nền kinh tế, tập trung cho lĩnh vực sản xuất, nhất là các
ngành ưu tiên.
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng
hoá tăng 3,6 lần, từ 157,1 tỉ USD năm 2010 lên 517 tỉ USD năm 2019, năm 2020 do ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh
Covid-19 đạt khoảng 527 tỉ USD, tương đương trên 190% GDP. Xuất khẩu tăng
nhanh, từ 72,2 tỉ USD năm 2010 lên khoảng 267 tỉ USD năm 2020, tăng bình quân
khoảng 14%/năm, là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Thị trường xuất
khẩu được mở rộng; nhiều doanh nghiệp tham gia sâu rộng vào chuỗi giá trị khu
vực, toàn cầu; góp phần nâng cao năng lực xuất khẩu và sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Cán cân thương mại được cải thiện rõ rệt, chuyển từ thâm hụt 12,6 tỉ
USD năm 2010 sang cơ bản cân bằng và có thặng dư vào những năm cuối kỳ Chiến
lược. Cán cân thanh toán quốc tế thặng dư; dự trữ ngoại hối tăng từ 12,4 tỉ USD
năm 2010 lên 28 tỉ USD năm 2015 và đạt trên 80 tỉ USD vào cuối kỳ Chiến lược.
Kỷ luật,
kỷ cương tài chính - ngân sách nhà nước được tăng cường. Cơ cấu thu,
chi ngân sách nhà nước chuyển biến tích cực theo hướng tăng tỉ trọng thu nội
địa, tăng tỉ trọng chi đầu tư phát triển và giảm tỉ trọng chi thường
xuyên. Bội chi ngân sách nhà nước giảm từ mức bình quân 5,4% GDP giai đoạn 2011 -
2015 xuống còn 3,5% GDP giai đoạn
2016 - 2019; riêng năm 2020 tỉ lệ bội chi là 4,99% GDP. Tỉ lệ nợ công so với
GDP tăng từ 51,7% cuối năm 2010 lên 63,7% năm 2016, do huy động thêm nguồn lực
để thực hiện đột phá chiến lược về kết cấu hạ tầng. Từ năm 2017, nhờ giảm bội
chi ngân sách nhà nước, siết chặt quản lý vay và bảo lãnh chính phủ, nợ công
bắt đầu giảm; tỉ lệ nợ công đến năm 2019 giảm còn 55% GDP, năm 2020 nợ công
tăng lên 56,8%, nhưng vẫn giữ được ổn định kinh tế vĩ mô và cải thiện hệ số tín
nhiệm quốc gia.
Các cân đối lớn của nền kinh tế về tích luỹ - tiêu dùng,
tiết kiệm - đầu tư, năng lượng, lương thực… tiếp tục được bảo đảm, góp phần
củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mô. Tỉ lệ tiết kiệm so với GDP giai đoạn
2011 - 2020 bình quân đạt khoảng 29%.
Huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển được đẩy mạnh, đầu tư khu vực
ngoài nhà nước tăng nhanh và chất lượng, hiệu quả được cải thiện. Vốn đầu tư phát triển giai đoạn
2011 - 2020 đạt gần 15 triệu tỉ đồng (tương đương 682 tỉ USD), tăng bình quân
10,6%/năm, trong đó vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ là 3,1 triệu
tỉ đồng (144 tỉ USD), chiếm 20,8% tổng đầu tư xã hội, tập trung cho các công
trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trọng điểm, nhất là giao thông, thuỷ
lợi, giáo dục, y tế, nông nghiệp, nông thôn, giảm nghèo, an ninh, quốc phòng...
góp phần quan trọng thay đổi diện mạo đất nước, tạo động lực cho phát triển và
thu hút các nguồn lực ngoài nhà nước.
Vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà
nước trong nước chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong tổng đầu tư xã hội, tăng từ 36,1% năm 2010 lên 45,7% năm 2020. Một số tập đoàn, doanh nghiệp
tư nhân đã tham gia đầu tư, hoàn thành nhiều công trình, dự án lớn, góp phần thúc đẩy phát triển
sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Nhiều dự án hạ tầng theo phương thức đối tác công
- tư (PPP) được triển khai thực hiện, nhất là trong lĩnh vực giao thông.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh; đã thu hút
được nhiều dự án quy mô lớn, công nghệ cao. Tổng số vốn đăng ký giai đoạn 2011 - 2020 đạt trên 278
tỉ USD; vốn thực hiện đạt 152,3 tỉ USD, tăng gần 6,9%/năm, chiếm 22,8% tổng vốn
đầu tư toàn xã hội.
2. Về cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng
Các trọng tâm
cơ cấu lại về đầu tư, các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp nhà nước được tập
trung thực hiện và đạt kết quả tích cực. Chuyển
căn bản từ kế hoạch đầu tư công hằng năm sang kế hoạch đầu tư công trung hạn
gắn với kế hoạch hằng năm; lồng ghép, huy động các nguồn lực để thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Phân bổ vốn đầu tư được gắn với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế; vốn đầu tư nhà nước tập trung nhiều hơn vào các công trình quan trọng, thiết yếu để đẩy nhanh tiến độ, đi vào khai thác. Tỉ trọng
vốn đầu tư nhà nước trong tổng đầu tư giảm từ 38,1% năm 2010 xuống 30,9% năm 2020 (mục tiêu là 31 - 34%). Kỷ luật, kỷ cương trong
đầu tư công được tăng cường, từng bước ngăn chặn tình trạng phê duyệt dự án
vượt quá khả năng cân đối vốn, đầu tư dàn trải, hạn chế nợ đọng xây dựng cơ
bản, góp phần chống thất thoát, lãng phí trong việc sử dụng các nguồn lực tài
chính quốc gia.
Cơ cấu lại các tổ
chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu được triển
khai đồng bộ, hiệu quả hơn, bảo đảm ổn định, an toàn hệ thống. Khung khổ pháp lý về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng từng bước
được hoàn thiện, tiệm cận với chuẩn mực, thông lệ quốc tế và phù hợp với điều
kiện thực tiễn của Việt Nam. Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu được triển khai quyết
liệt và đạt kết quả tích cực; số lượng các tổ chức tín dụng có quy mô nhỏ,
hoạt động yếu kém giảm dần; tỉ lệ nợ xấu giảm từ 17,2% năm
2012 xuống dưới 3% đến cuối năm 2020; bảo đảm an toàn hệ thống. Tính minh bạch được cải thiện; sở hữu chéo, đầu
tư chéo trong các tổ chức tín dụng đã từng bước được xử lý; tình trạng cổ
đông/nhóm cổ đông lớn thao túng, chi phối ngân hàng về cơ bản được kiểm soát. Thanh toán điện tử có xu hướng tăng lên, thanh toán bằng
tiền mặt giảm dần. Cơ cấu thị trường tài chính có sự điều chỉnh hợp lý hơn. Quy mô thị
trường chứng khoán tăng mạnh từ 19,3% GDP
năm 2011 lên 72,6% GDP năm 2019, năm 2020 mặc dù ảnh hưởng của dịch bệnh
Covid-19 có giảm sâu vào đầu năm nhưng đã có xu hướng phục hồi, dự báo đạt
khoảng 85% GDP.
Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước
được đẩy mạnh, thực chất hơn; tập trung vào cổ phần hoá, thoái vốn và nâng cao
hiệu quả hoạt động. Số lượng doanh nghiệp nhà nước được thu gọn, tập trung vào
những ngành, lĩnh vực then chốt. Một số doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò dẫn dắt
ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Giai đoạn 2011 - 2019 cổ phần hoá
được 679 doanh nghiệp nhà nước; tổng thu từ cổ phần hoá, thoái vốn đạt 303
nghìn tỉ đồng. Quản trị doanh nghiệp được cải thiện; cạnh tranh bình đẳng, công
khai, minh bạch hơn. Từng bước tách bạch chức năng quản lý nhà nước và đại diện
chủ sở hữu vốn nhà nước, đã thành lập và đưa vào hoạt động Uỷ ban Quản lý vốn
nhà nước tại doanh nghiệp. Khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã có bước phát
triển cả về số lượng và chất lượng; xuất hiện nhiều mô hình mới, hiệu quả.
Khu vực kinh tế ngoài nhà nước trong nước (bao gồm doanh nghiệp tư nhân
và kinh tế hộ gia đình) đạt tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỉ trọng 43% GDP,
thu hút khoảng 85% lao động đang làm việc của nền kinh tế, góp phần quan trọng
trong huy động các nguồn lực xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm,
tăng thu nhập cho người lao động, nhất là các lĩnh vực đầu tư,
kinh doanh du lịch, khu đô thị, sản xuất ô tô, nông nghiệp công nghệ cao,
thương mại, dịch vụ. Môi trường kinh doanh
được cải thiện, ngày càng thuận lợi hơn; cắt giảm trên 50% thủ tục hành chính,
điều kiện kinh doanh; giảm chi phí sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp tư nhân
thành lập mới tăng nhanh cả về số lượng và vốn đăng ký; tinh thần khởi nghiệp lan toả rộng rãi. Nhiều mô hình kinh doanh mới dựa
trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhất là công nghệ thông tin phát
triển mạnh mẽ trong thời gian gần đây. Đã hình thành và phát triển một số tập đoàn
kinh tế tư nhân tiên phong trong đầu tư và ứng dụng khoa học, công nghệ, có
thương hiệu và năng lực cạnh tranh trong nước, khu vực và quốc tế.
Cơ cấu kinh tế ngành và nội ngành chuyển biến
tích cực; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo và ứng dụng công
nghệ cao tăng lên. Tỉ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trong GDP giảm từ 18,9% năm 2010 xuống 14,8% năm 2020; các khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ (bao gồm cả thuế sản phẩm trừ trợ cấp) tăng tương ứng từ 81,1% lên 85,2%, vượt mục tiêu đề ra.
Cơ cấu nội ngành chuyển
dịch tích cực; trong khu vực công nghiệp, xây dựng, tỉ trọng ngành chế biến, chế tạo tăng từ 13% năm 2010 lên 16,9% năm 2020; tỉ trọng ngành khai khoáng giảm từ 9,5% xuống còn 6,2%. Tỉ trọng giá trị sản phẩm công nghệ cao và ứng dụng công nghệ cao trong
các khu vực nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ có xu hướng tăng lên.
Cơ cấu lao động chuyển dịch từ khu
vực năng suất lao động thấp sang khu vực năng suất lao động cao hơn. Tỉ trọng lao động nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
trong tổng số lao động cả nước giảm từ 48,6% năm 2010 xuống còn
34% năm 2020, đạt mục tiêu đề ra (30 - 35%). Tỉ trọng lao động ngành công nghiệp và xây dựng
tăng từ 21,7% lên 30,3%; ngành dịch vụ từ 29,7% lên khoảng 35,7% trong cùng
giai đoạn. Tỉ lệ lao động khu vực có quan hệ lao động từ 35% năm 2011 tăng lên 44,7% năm 2019 và dự kiến khoảng 45% năm 2020.
Về cơ cấu lại nông nghiệp: Cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển biến tích cực hướng vào
phát huy tiềm năng, lợi thế của vùng, miền, nhu cầu thị trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo đảm an ninh lương thực. Sản xuất
nông nghiệp được tập trung phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, hiện đại,
giá trị gia tăng cao và bền vững. Nông nghiệp vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng
khá, đạt bình quân khoảng 3%/năm.
Hình thành nhiều mô hình sản
xuất ứng dụng công nghệ cao; đầu tư của doanh nghiệp vào nông nghiệp tăng; phát triển liên kết sản xuất theo chuỗi
giá trị và
xây dựng được thương hiệu của một số nông sản chủ lực. Phát triển nông nghiệp công nghệ cao,
nông nghiệp sạch, hữu cơ được chú trọng, từng bước chuyển đổi sang cây trồng,
vật nuôi có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Khoa học, công nghệ đóng góp
trên 30% tổng giá trị gia tăng trong nông nghiệp. Chất lượng nhiều loại sản
phẩm đáp ứng yêu cầu an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế. Hình thức kinh tế hợp tác
và doanh nghiệp nông nghiệp tăng nhanh; đến năm 2020 có khoảng 15 nghìn hợp tác
xã nông nghiệp hoạt động hiệu quả và gần 12 nghìn doanh nghiệp trực tiếp sản
xuất nông nghiệp; qua đó khẳng định vai trò trung tâm thúc đẩy phát triển nông
nghiệp. Quá trình cơ cấu lại
nông nghiệp đã gắn kết chặt chẽ với xây dựng
nông thôn mới, nhất là trong phát triển hạ tầng, phát triển sản xuất, nâng cao
đời sống nhân dân khu vực nông thôn.
Chất lượng tăng trưởng ngày càng được cải thiện, tỉ lệ giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản xuất
ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đã tăng từ 55,7%
năm 2010 lên 61,1% năm 2019; năng suất lao động giai đoạn 2011 - 2020
ước tính tăng bình quân 4,73%/năm (mục tiêu đề ra là 3,5%/năm). Xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản tăng mạnh, thị trường tiêu thụ được mở rộng; kim ngạch xuất khẩu tăng từ 21,8 tỉ USD năm 2011 lên khoảng
41 tỉ USD năm 2020, tăng bình quân khoảng 7,3%/năm.
Về cơ cấu
lại khu vực công nghiệp - xây dựng: Cơ cấu các ngành công nghiệp chuyển
dịch theo hướng giảm dần tỉ trọng ngành khai
khoáng, tăng nhanh tỉ trọng ngành chế biến, chế tạo. Một số sản phẩm công nghiệp
xuất khẩu có quy mô lớn, chiếm vị trí vững chắc trên thị trường thế giới. Tỉ
trọng hàng hoá xuất khẩu qua chế biến trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá tăng
từ 65% năm 2011 lên 85% năm 2020; tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ
cao trong tổng giá trị sản phẩm công nghệ cao tăng từ 38% năm 2010 lên 77,7%
năm 2019.
Năng lực cạnh tranh toàn cầu
của ngành công nghiệp tăng từ vị trí 58 vào năm
2009 lên thứ 42 vào năm 2019, đã hình thành được một số
tập đoàn kinh tế có tiềm lực trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, nhất
là công nghiệp ô tô. Năm 2019, doanh nghiệp công nghệ cao, ứng dụng công nghệ
cao chiếm trên 13% trong tổng số doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo.
Giá trị sản phẩm công nghệ cao, ứng dụng công nghệ cao tăng từ 26% năm 2010 lên
trên 40% năm 2019. Đã hình thành một số ngành công nghiệp hỗ trợ và gia tăng tỉ lệ nội địa hoá. Phát triển các ngành công nghiệp từng bước đi vào chiều sâu; chỉ số sản xuất công nghiệp tăng bình quân khoảng 8% giai đoạn 2011 - 2020, trong đó ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo có mức tăng trưởng khoảng 10%, trở thành động lực chính cho khu vực công nghiệp và
toàn bộ nền kinh tế.
Cơ cấu lại ngành xây dựng được
tập trung thực hiện, phát huy hiệu quả; năng lực xây lắp được cải thiện; chất
lượng công trình xây dựng từng bước được nâng cao và được kiểm soát chặt chẽ
hơn. Giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng bình quân khoảng 8,3%/năm; năng suất
lao động tăng bình quân 7,9%/năm. Làm chủ được nhiều công nghệ xây dựng tiên
tiến, đưa vào ứng dụng, số lượng công trình có quy
mô lớn, công trình ứng dụng công nghệ mới, kỹ thuật cao ngày càng tăng; áp dụng
phương thức quản lý hiện đại, chuyên nghiệp.
Sản xuất vật liệu xây dựng phát triển mạnh, đáp ứng nhu cầu trong nước,
một phần xuất khẩu. Chất lượng và sức cạnh tranh của nhiều sản phẩm vật liệu
được cải thiện đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, trong đó một số sản phẩm có thể cạnh
tranh với khu vực và thế giới.
Về cơ cấu lại khu vực dịch vụ: Cơ cấu lại khu vực dịch vụ được triển khai tích cực theo
hướng nâng cao chất lượng, tập trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa
dạng các loại hình dịch vụ. Một số
ngành, lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao được đẩy mạnh và từng bước hiện
đại hoá, như công nghệ thông tin, truyền thông,
thương mại điện tử, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, y tế, hàng
không… Số lao động làm việc trong khu vực dịch vụ tăng từ 14,5 triệu lao động năm 2010 lên khoảng 19 triệu lao động vào năm
2020. Giai đoạn 2011 - 2020, tăng trưởng của ngành dịch vụ ước đạt 6,4%/năm,
cao hơn tăng trưởng chung của nền kinh tế (5,9%/năm).
Ngành du lịch đã có bước phát triển rõ rệt và đạt được
những kết quả quan trọng, cơ bản trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn, số lượng khách quốc
tế tăng nhanh, từ 5 triệu lượt năm 2010 lên 18 triệu lượt năm 2019, bình quân tăng khoảng 15%/năm, đóng góp trực tiếp
khoảng 10% GDP. Năm 2020, dịch bệnh Covid-19 đã tác động rất nghiêm
trọng đến ngành du lịch và nhiều ngành dịch vụ như giao thông vận tải, hàng
không, khách sạn, ăn uống, giải trí…, số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam
giảm mạnh.
3. Về các đột phá chiến lược
Thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập,
trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, thuận lợi. Đã hoàn thiện căn bản hệ thống pháp luật về kinh tế khá
đầy đủ, tạo cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình sở hữu hoạt
động. Ban hành Hiến pháp năm 2013 và tập trung sửa đổi, hoàn thiện các luật,
pháp lệnh và văn bản quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành, nhất là trong các lĩnh vực đầu tư, doanh nghiệp,
đất đai, môi trường, cạnh tranh, kiểm soát độc quyền, bảo vệ người tiêu dùng, giải quyết tranh chấp, phá sản, xử lý vi phạm... Vai
trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Việc tổ chức thi hành pháp luật từng bước được tăng
cường, nhất là trong những năm gần đây.
Các yếu
tố thị trường và các loại thị trường hàng hoá, dịch vụ từng bước hình thành đồng
bộ, vận hành cơ bản thông suốt và bước đầu có sự gắn kết với thị trường khu vực
và quốc tế. Thị trường vốn, đặc biệt là thị trường chứng khoán phát triển mạnh,
trở thành một kênh huy động vốn cho nền kinh tế. Thị trường bất động sản phát
triển khá đa dạng về loại hình, chất lượng sản phẩm; quy mô tăng nhanh. Thị trường
khoa học, công nghệ hình thành, từng bước phát huy hiệu quả. Các thiết chế của
thị trường lao động từng bước được hoàn thiện, thúc đẩy dịch chuyển lao động giữa
các ngành, khu vực của nền kinh tế.
Môi
trường đầu tư kinh doanh chuyển biến rõ nét; quyền tự do, bình đẳng trong kinh
doanh, tiếp cận cơ hội kinh doanh được cải thiện; đẩy mạnh cải cách thủ tục
hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh và danh mục ngành nghề kinh doanh có
điều kiện. Vị
trí xếp hạng môi trường kinh doanh toàn cầu của Việt Nam được cải thiện đáng kể.
Phát triển nguồn nhân lực được đẩy mạnh, nhất là nhân lực
chất lượng cao, gắn kết chặt chẽ hơn với nhu cầu thị trường; phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghệ đạt kết quả tích cực.
Quy mô nguồn nhân lực được mở rộng, lực lượng lao động tăng từ 50,4 triệu người năm 2010 lên khoảng 54,6 triệu người vào năm 2020 với cơ cấu hợp lý hơn. Chất lượng nhân lực có sự cải thiện đáng
kể và phù hợp hơn với nhu cầu thị trường. Tỉ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 40% năm 2010 lên 64,5% năm 2020. Trong đó, tỉ lệ
lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ tăng từ 14,6% năm 2010 lên 24,5%
vào năm 2020. Nhân lực chất lượng cao tăng cả về
số lượng và chất lượng, trong đó một số ngành, lĩnh vực đạt trình độ khu
vực và quốc tế như công nghệ thông tin, y tế, công nghiệp xây dựng, cơ khí…
Việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo được
triển khai tích cực theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá
và hội nhập quốc tế. Xây dựng và triển khai hệ thống giáo dục quốc dân và khung
trình độ quốc gia mới. Mạng lưới
cơ sở giáo dục, đào tạo tiếp tục được mở rộng ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học.
Quan tâm phát triển giáo dục vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bảo đảm công bằng hơn trong tiếp cận giáo dục. Chương trình, sách
giáo khoa, nội dung, phương pháp giáo dục, thi cử, kiểm định chất lượng đào tạo
được đổi mới phù hợp hơn và giảm áp lực, chi phí xã hội. Chú trọng dạy và học đạo đức, kỹ
năng sống, ngoại ngữ, giáo dục thể chất. Từng bước thực hiện cơ chế tự chủ đối với cơ
sở giáo dục - đào tạo. Chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, nghề nghiệp được nâng lên; các đoàn học sinh dự thi Olympic
quốc tế và thi tay nghề đều đạt kết quả cao. Trong thời gian
dịch bệnh Covid-19, ngành giáo dục - đào tạo đã bước đầu tiếp cận dạy và học qua Internet,
truyền hình với nhiều hình thức khác nhau.
Phát triển nguồn nhân lực
gắn với khoa học, công nghệ đạt
được kết quả tích cực. Nhiều cơ sở giáo dục - đào tạo có cơ chế khuyến khích sinh viên, học viên nghiên cứu,
ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là thông qua quỹ phát triển khoa học, công nghệ. Công tác đào
tạo nhân lực đã từng bước thay đổi theo
hướng đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, người sử dụng lao động, thị
trường. Nhiều cơ sở giáo dục đại học, nghề nghiệp hợp tác chặt chẽ với doanh
nghiệp để đào tạo theo đặt hàng. Nhiều doanh nghiệp mở các cơ sở đào tạo nghề
nghiệp phục vụ trực tiếp cho doanh nghiệp và cung ứng cho thị trường.
Tiềm lực khoa học, công nghệ quốc gia
được tăng cường. Khoa học xã hội đã đóng góp tích cực vào cung cấp luận cứ cho việc hoạch định
đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách và định hướng phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Một số lĩnh vực khoa học tự nhiên đạt trình độ tiên
tiến của khu vực và thế giới. Đã chú trọng nghiên cứu ứng dụng, nâng cao năng
lực, trình độ khoa học, công nghệ. Đủ khả năng thiết kế, chế tạo thành công
nhiều công nghệ, thiết bị đạt tiêu chuẩn quốc tế. Xuất hiện nhiều mô hình sản xuất ứng
dụng công nghệ cao với sự đầu tư mạnh của các doanh nghiệp, tập đoàn lớn trong
nước và nước ngoài.
Hệ thống phòng thí nghiệm trọng điểm,
phòng thí nghiệm chuyên ngành tiếp tục được quan tâm đầu tư, nâng cao hiệu quả
hoạt động. Hạ tầng nghiên cứu trong một số lĩnh vực trọng điểm như công nghệ
sinh học, hoá dầu, vật liệu, tự động hoá, nano, công nghệ tính toán, y học…
được tăng cường. Khởi động và phát triển hệ Tri thức Việt số hoá. Hợp tác quốc
tế về khoa học, công nghệ có nhiều chuyển biến tích cực.
Thị trường khoa học, công nghệ phát
triển mạnh hơn; đã có 15 sàn giao dịch, 50 vườn ươm công nghệ. Tổng giá trị các
giao dịch mua bán công nghệ tăng mạnh hằng năm. Công tác bảo hộ và thực thi
quyền sở hữu trí tuệ được tăng cường. Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia ngày càng
tiệm cận với tiêu chuẩn quốc tế. Cơ sở dữ liệu về công nghệ và chuyên
gia được hình thành. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo phát triển khá.
Đến nay, đã có hơn 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp, gần 70 khu không gian làm
việc chung, hình thành nhiều quỹ đầu tư mạo hiểm. Số đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp tăng nhanh. Chỉ số đổi
mới sáng tạo của Việt Nam những năm gần đây tăng vượt bậc, năm 2019 xếp
thứ 42/129, tăng 17 bậc so với năm 2016, dẫn đầu nhóm quốc gia có thu nhập
trung bình thấp.
Tập trung các nguồn lực xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
đồng bộ, với các công trình hiện đại, nhất là hệ thống giao thông và hạ tầng đô
thị lớn. Nhiều công trình, dự án kết cấu
hạ tầng lớn, hiện đại trong các lĩnh vực như giao thông, năng lượng, viễn
thông, thuỷ lợi, đô thị, thương mại… được tập trung đầu tư, hoàn thành và đưa
vào khai thác. Năng lực hệ thống kết cấu hạ tầng được nâng lên đáng kể.
Nhiều công trình đường cao tốc, quốc lộ, các tuyến vành
đai tại các đô thị lớn, cảng hàng không, cảng biển quan trọng, quy mô lớn được
xây dựng, nâng cấp, góp phần làm tăng khả năng kết nối giữa các vùng, miền
trong cả nước và giao thương quốc tế. Đã hoàn thành và đưa vào khai thác, sử
dụng khoảng 1.400 km đường cao tốc, 6.000 km quốc lộ; hoàn thành dự án mở rộng
Quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh qua Tây Nguyên…, các tuyến cao tốc Hà Nội - Hải
Phòng, Hà Nội - Thái Nguyên, Hà Nội - Bắc Giang, Nội Bài - Lào Cai, Cầu Giẽ -
Ninh Bình, Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, Đà Nẵng - Quảng Ngãi...;
cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện, Cái Mép - Thị Vải. Xây dựng và nâng cấp các
cầu lớn, hầm lớn, các cảng hàng không quan trọng.
Tiếp tục khởi công nhiều đoạn của cao tốc Bắc - Nam, cảng hàng không quốc tế
Long Thành.
Hạ tầng năng lượng được tập trung
đầu tư, tăng thêm năng lực, đáp ứng yêu cầu phát triển
và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Nhiều công trình lớn (trên 1.000 MW)
được hoàn thành đưa vào sử dụng như thuỷ điện Sơn
La, Lai Châu; nhiệt điện Vĩnh Tân 2 và 4, Mông Dương 1 và 2, Vũng Áng 1,
Duyên Hải 1 và 3; đưa điện lưới ra các đảo;
đã tăng thêm 18,5 nghìn MW công suất nguồn, khoảng 7,6 nghìn km truyền tải các
loại 500 kV, 220 kV và 37,4 nghìn MVA công suất các trạm biến áp.
Hạ tầng thuỷ lợi được tập trung đầu
tư xây dựng và nâng cấp theo hướng đa mục tiêu; nhiều
dự án trọng điểm, quy mô lớn về đê điều, hồ đập,
cầu cống, kênh mương đã hoàn thành, đưa vào sử dụng, góp phần tăng năng
lực tưới tiêu, ngăn mặn, thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Hạ tầng đô thị được quan tâm đầu tư, nhất là ở các thành
phố lớn. Nhiều công trình tuyến chính ra vào thành phố, các trục giao thông hướng
tâm, các tuyến tránh đô thị, các đường vành đai đô thị, các cầu lớn và nút giao
lập thể được đầu tư xây dựng. Các chương trình cấp thoát nước, xử lý chất thải rắn
được tập trung đầu tư, đạt kết quả bước đầu.
Hạ tầng thông tin và truyền thông phát triển mạnh, hiện đại,
rộng khắp, bảo đảm kết nối với quốc tế và bước đầu hình thành siêu xa lộ thông
tin.
Từng bước xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu lớn; chính phủ điện tử được
từng bước hoàn thiện, mang lại hiệu quả thiết thực.
Hạ tầng giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ, y tế,
văn hoá, thể thao, du lịch... được quan tâm đầu tư. Nhiều dự án xây dựng trường
học, cơ sở vật chất ngành giáo dục, hạ tầng khoa học, công nghệ được tập trung
đầu tư, trong đó có các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học trọng điểm quốc gia. Xây dựng
mới, cải tạo, nâng cấp 766 bệnh viện các tuyến, 114 phòng khám đa khoa khu vực,
trên 2 nghìn trạm y tế xã... Đầu tư xây dựng mới và đưa vào sử dụng một số bệnh
viện Trung ương và tuyến cuối tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh theo hướng hiện
đại, kỹ thuật cao, ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực.
4. Về phát
triển vùng, kinh tế biển, đô thị, xây dựng nông thôn mới
Phát triển vùng đã có bước chuyển biến, khai thác tốt hơn
tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, khu vực. Tăng cường liên kết, nhiều
công trình hạ tầng kết nối vùng được hoàn thành. Các vùng kinh tế trọng điểm,
đô thị lớn tiếp tục phát huy vai trò đầu tàu trong phát triển kinh tế - xã hội,
thu hút nhiều vốn đầu tư và đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu,
thu ngân sách.
Vùng trung du và miền núi phía Bắc: Mạng lưới giao thông nội vùng và
kết nối với vùng đồng bằng Sông Hồng được đầu tư như các cao tốc nối
Hà Nội với Lào Cai, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hoà Bình, Lạng Sơn, Bắc Giang. Hoàn
thành các công trình thuỷ điện lớn Sơn La, Lai Châu. Tập trung phát triển các
ngành có lợi thế như thuỷ điện, kinh tế cửa khẩu, khai thác, chế biến khoáng sản,
nông, lâm sản, du lịch...
Vùng đồng
bằng Sông Hồng: Nhiều công trình hạ tầng quy mô
lớn được đầu tư, đưa vào khai thác như Nhà ga
T2 Nội Bài, cảng hàng không Vân Đồn,
Cát Bi, cảng Lạch Huyện, đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long -
Vân Đồn, cầu Nhật Tân, Bạch Đằng, Tân Vũ - Lạch Huyện... Thu hút nhiều dự án đầu
tư nước ngoài quy mô lớn, công nghệ cao. Du lịch phát triển nhanh tại một số địa
bàn.
Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung: Đã hoàn thành nâng cấp, mở rộng
Quốc lộ 1, cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, nâng cấp các cảng hàng không, cảng biển.
Đã thu hút được một số dự án đầu tư quy mô lớn vào các khu kinh tế, khu công
nghiệp ven biển; kinh tế biển, nhất là du lịch, khai thác hải sản… phát triển
nhanh.
Vùng Tây Nguyên: Nâng cấp, mở rộng đường Hồ Chí
Minh đoạn qua Tây Nguyên, kết nối với Đông Nam Bộ và một số tuyến đường nối Tây
Nguyên với các địa phương ven biển. Tập trung phát triển thuỷ điện, khai thác,
chế biến bô-xít, cây công nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao.
Vùng Đông Nam Bộ: Hoàn thành đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long
Thành - Dầu Giây; triển khai nâng cấp, mở rộng cảng hàng không Tân Sơn Nhất, cảng
quốc tế Cái Mép - Thị Vải… Hạ tầng đô thị được nâng cấp. Vai trò đầu tàu của
vùng được phát huy, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu, thu ngân
sách của cả nước.
Vùng đồng
bằng sông Cửu Long: Hệ thống đường bộ, đường thuỷ nội địa được nâng cấp; một
số cầu lớn được đầu tư xây dựng như Cổ Chiên, Vàm Cống, Cao Lãnh, Năm Căn… Tiếp
tục phát triển mạnh các ngành có lợi thế như nuôi trồng thuỷ, hải sản, cây ăn
quả, du lịch…
Nhận thức về phát triển kinh tế biển
gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo được nâng lên; tiềm năng, lợi thế của
biển được phát huy, nhiều địa phương có biển phát triển năng động. Đã chú trọng, tập
trung đầu tư khai thác tiềm năng, thế mạnh của các cảng hàng không, cảng biển,
phát triển dịch vụ, du lịch, đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản, đóng và
sửa chữa tàu biển, khai thác và chế biến dầu
khí… Số lượng tàu, thuyền có công suất từ 90 CV trở lên tăng từ 19,3
nghìn chiếc năm 2010 lên 37 nghìn chiếc năm 2020, công suất tăng từ 4,1 triệu
CV lên 14,6 triệu CV. Hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế biển,
đảo được cải thiện rõ rệt, nhất là các công trình điện lưới quốc gia nối với
các đảo lớn, các cảng biển, trung tâm nghề cá và các âu tàu phục vụ đánh bắt xa
bờ, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, ứng phó với biến đổi khí hậu. Làm tốt
công tác cứu hộ, cứu nạn, bảo đảm an toàn cho người lao động, ngư dân trên biển,
đảo. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân vùng biển và hải đảo được cải
thiện.
Hệ thống đô thị tăng nhanh về số lượng, mở rộng về quy mô, dần hình
thành mạng lưới đô thị, góp phần tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Chú
trọng xây dựng, nâng cao chất lượng đô thị theo hướng đồng bộ, xanh, thân thiện
với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Tỉ lệ đô thị hoá tăng từ 30,5% năm 2010 lên 39,3% năm 2020. Mạng lưới đô
thị phân bố tương đối đồng đều, trở thành hạt nhân, động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội của từng vùng và trên cả nước. Các đô thị lớn,
nhất là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh là cực tăng trưởng chủ đạo, lan toả tri thức, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh cạnh tranh, hội
nhập quốc tế, đa dạng hoá các hoạt
động kinh tế, tác động lớn đến sự phát triển nền kinh tế thị trường năng động.
Một số khu vực có tốc độ đô thị hoá cao, đóng góp cho tăng trưởng lớn như Hải
Phòng, Quảng Ninh; Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi; Khánh Hoà, Ninh Thuận; An
Giang, Kiên Giang.
Hạ tầng kỹ
thuật và hạ tầng xã hội trong đô thị từng bước được hoàn thiện theo hướng hiện
đại hoá. Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đạt được nhiều kết quả.
Chương
trình xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả quan trọng. Hạ tầng kinh tế - xã
hội cải thiện rõ rệt, diện mạo mới cho nông thôn có nhiều khởi sắc; các thiết
chế văn hoá được củng cố, phát huy hiệu quả; qua đó thúc đẩy phát triển sản
xuất, kết nối thị trường và nâng cao đời sống người dân. Chương trình xây dựng nông thôn mới đã hoàn thành
trước thời hạn gần 2 năm so với mục tiêu Chiến lược đề ra; đến hết năm
2019 cả nước có 54% số xã và 111 huyện đạt chuẩn nông thôn mới. Giao thông nông
thôn được đầu tư nâng cấp, mở rộng, tăng từ
278 nghìn km năm 2010 lên khoảng 580 nghìn km năm 2020; xây dựng trên 16 nghìn công trình cấp nước sinh
hoạt tập trung; 99,7% số xã đã có trường tiểu học và mẫu giáo; 99,5% số
xã có trạm y tế; 58,6% số xã có nhà văn hoá.
5. Về văn hoá - xã hội
Phát triển văn hoá,
xây dựng con người Việt Nam đạt kết quả tích cực. Nhận thức về giá trị di sản văn hoá và truyền thống văn hoá ngày càng
được nâng cao. Đời sống văn hoá của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị
văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc được đề cao và phát huy. Sản phẩm văn
hoá, văn học nghệ thuật ngày càng đa dạng và có chất lượng. Xã hội hoá các hoạt
động văn hoá được mở rộng. Nhiều di sản văn hoá vật thể, phi vật thể, di sản
thiên nhiên và di sản ký ức thế giới được công nhận, bảo tồn, tôn tạo và phát
huy giá trị. Hoạt động giao lưu, quảng bá giá trị văn hoá Việt Nam
được thực hiện chủ động và tích cực.
Công tác thông tin, truyền thông được
chú trọng hơn, thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Thực hiện quy
hoạch báo chí, vừa tăng cường quản lý, vừa phát huy vai trò báo chí cách mạng;
phát triển mạnh báo chí đa phương tiện. Công tác xuất bản, in, phát hành
đáp ứng tốt hơn nhu cầu xã hội.
Phong trào thể dục, thể thao quần chúng ngày càng được mở
rộng. Thể thao thành tích cao đã đạt được nhiều kết quả trên các đấu trường khu
vực, quốc tế, đặc biệt là các môn thể thao Olympic.
Tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm nhanh, từ 14,2% năm 2010
xuống còn 7% năm 2015 (theo chuẩn nghèo giai
đoạn 2011 - 2015) và giảm từ 9,2% năm 2016 xuống dưới 3% vào năm 2020
(theo chuẩn nghèo đa chiều). Cơ sở hạ tầng thiết
yếu ở các huyện nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tăng
cường. Đời sống người dân không ngừng được cải thiện; tạo sinh kế và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ
bản. Thu nhập bình quân đầu người tăng
3,1 lần, từ 16,6 triệu đồng năm 2010 lên 51,5 triệu đồng năm 2019.
Thực hiện nhiều giải pháp tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động.
Tỉ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi khu vực thành thị có xu
hướng giảm dần, từ mức 4,3% năm 2010 xuống còn khoảng 3,1% năm 2019, riêng năm
2020 do tác động của dịch bệnh Covid-19 nhiều doanh nghiệp phải giãn, dừng,
chấm dứt hoạt động, tỉ lệ lao động mất việc làm, thất nghiệp gia tăng. Quan hệ
lao động ngày càng hài hoà, tiến bộ; số vụ tranh chấp lao động tập thể, đình
công giảm dần qua các năm.
Thực hiện tốt các chính sách người có công, bảo đảm an
sinh xã hội. Phát huy truyền thống uống nước nhớ nguồn, huy động toàn xã hội
tham gia chăm sóc gia đình chính sách, người có công. Đến nay, cả nước đã xác
nhận được trên 9,2 triệu người có công, trong đó, số người đang hưởng chế độ ưu
đãi hằng tháng gần 1,4 triệu người; trên 500 nghìn thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp hằng tháng. Diện bao
phủ bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng, số người tham gia tăng từ
9,5 triệu người năm 2010 lên 14,7 triệu người năm 2018 (chiếm 30,4% lực lượng
lao động trong độ tuổi). Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp tăng nhanh. Thực hiện hiệu quả các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm thất nghiệp, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động; mở rộng và thực hiện tốt
các chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên và
đột xuất. Nhà nước đã dành nhiều nguồn lực đối phó với đại dịch Covid-19;
thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn; giảm, giãn thuế, phí, lệ phí; giảm giá điện, nước, dịch vụ viễn thông; khoanh nợ, giãn nợ, giảm lãi suất
tín dụng…
Đẩy mạnh hỗ trợ nhà ở cho người có công, người nghèo ở nông thôn và các vùng thường
xuyên bị thiên tai, bão lũ; phát triển nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp tại đô
thị và công nhân khu công nghiệp. Diện
tích bình quân nhà ở tăng từ 17,9 m2/người năm 2010 lên khoảng 25 m2/người
năm 2020.
Bình đẳng giới được thực hiện có hiệu quả trên các lĩnh
vực từ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội; đặc biệt, đã thu hẹp khoảng cách
giới trong việc làm, tiền lương. Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được quan tâm
cả về tổ chức bộ máy, chính sách, pháp luật, nguồn lực và được triển khai thực
hiện ở cả ba cấp độ: Phòng ngừa, can thiệp giảm thiểu các nguy cơ và hỗ trợ
phục hồi, hoà nhập cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Đã hoàn thành mục tiêu phổ
cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi. Việc xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh
phúc được quan tâm; nhiều mô hình phòng, chống bạo lực gia đình được nhân rộng.
Trong phòng, chống dịch bệnh Covid-19, đã nổi lên những giá trị đạo đức xã hội,
nhiều gương người tốt, việc tốt được nhân rộng, phát huy.
Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng
cao sức khoẻ nhân dân được quan tâm. Y tế dự phòng được tăng cường, cơ bản
không để dịch bệnh lớn xảy ra. Việt Nam từng bước kiểm soát được dịch bệnh
Covid-19, không để lây lan trên diện rộng, được ghi nhận, đánh giá cao. Mạng
lưới cơ sở y tế phát triển rộng khắp, năng lực, chất lượng khám, chữa bệnh và y
đức được nâng lên; y tế cơ sở được chú trọng. Nhiều bệnh viện công lập được
thực hiện tự chủ. Công nghiệp dược phát triển nhanh, năng lực sản xuất thuốc
trong nước có nhiều tiến bộ. Thuốc sản xuất trong nước chiếm 74% mặt hàng, đáp
ứng được trên 50% về lượng và 40% về giá trị; đã sản xuất được nhiều loại thuốc
đòi hỏi công nghệ cao, yêu cầu kỹ thuật ngặt nghèo; đã sản xuất được 11/12 loại
vắc-xin sử dụng trong Chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia. Ứng dụng rộng
rãi công nghệ thông tin trong khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ nhân dân,
đặc biệt là triển khai nền tảng hỗ trợ tư vấn khám, chữa bệnh trực tuyến, từ xa.
Nhiều dịch vụ y tế kỹ thuật cao, tiên tiến được áp dụng. Tình trạng quá tải
bệnh viện, nhất là tuyến Trung ương và tuyến cuối từng bước được khắc phục.
Tuổi thọ trung bình tăng từ 72,9 tuổi
năm 2010 lên 73,7 tuổi vào năm 2020, trong đó nam giới 71,2 tuổi, nữ giới 76,5
tuổi. Số bác sĩ trên 1 vạn dân tăng từ
7,2 bác sĩ năm 2010 lên khoảng 9 bác sĩ năm 2020. Số giường bệnh trên 1 vạn
dân tăng từ 21,9 giường năm 2010 lên 28 giường năm 2020, vượt mục tiêu đặt ra
(26 giường). Thay đổi căn bản về bảo hiểm y tế, hướng tới bảo hiểm y tế toàn
dân; tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng nhanh từ 60,9% dân số năm 2010 lên 90,7% vào năm 2020. Mức sinh
thay thế được duy trì, chất lượng dân số được cải thiện. Tình trạng suy dinh
dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em giảm mạnh.
Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội được tăng cường; đã
hình thành hệ thống cơ quan chuyên trách phòng, chống tệ nạn xã hội ở địa
phương.
Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam liên tục
được cải thiện, thuộc
nhóm các nước có mức phát triển con người trung bình cao của thế giới. Đã hoàn
thành trước thời hạn nhiều mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, được đánh giá là
điểm sáng trong lĩnh vực giảm nghèo, y tế, giáo dục và tích cực triển khai thực
hiện các Mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030.
6. Về quản lý tài nguyên, bảo vệ và cải thiện chất lượng
môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai
Công tác quản
lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu ngày càng được
chú trọng hơn. Hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên, môi trường
tiếp tục được hoàn thiện; đánh giá tác động môi trường được quan tâm hơn; hệ
thống cơ sở dữ liệu từng bước được xây dựng, đáp ứng yêu cầu theo dõi, giám
sát, đánh giá trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí
hậu. Vấn đề tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được tích
hợp, lồng ghép vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Các nguồn lực
tài nguyên từng bước được quản lý chặt chẽ, khai thác và sử dụng có hiệu quả
hơn, nhất là đất đai, khoáng sản; phát hiện và xử lý nhiều vụ việc vi phạm,
lãng phí, tham nhũng.
Công tác
phòng ngừa, kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, ngăn ngừa suy thoái, cải thiện chất
lượng môi trường đã đạt được một số kết quả tích cực. Đã thực hiện một số giải
pháp bảo vệ môi trường trong sản xuất kinh doanh, thực hiện dự án đầu tư và thu
hút đầu tư nước ngoài. Công tác bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, bảo vệ
và phát triển rừng được quan tâm. Phát hiện và xử lý nhiều vụ việc, cơ sở gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Năng lực và
chất lượng dự báo thời tiết, cảnh báo thiên tai được nâng lên; nhiều giải pháp
ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, tránh thiên tai được triển khai tích cực
và đạt nhiều kết quả.
Đến năm 2020,
90% dân cư thành thị được sử dụng nước sạch và 90,2% dân số nông thôn được sử
dụng nước sạch và hợp vệ sinh. Tỉ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt
động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường là 90%,
trong đó có 53% đã lắp đặt thiết bị quan trắc
nước thải tự động. Tỉ lệ chất thải rắn được thu gom và xử lý đạt 85,5%.
7. Về quản lý nhà nước, cải cách hành chính, phòng, chống
tham nhũng, lãng phí
Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên. Vai
trò của Nhà nước và nội dung, phương thức quản lý nhà nước đã từng bước điều chỉnh
phù hợp hơn với yêu cầu phát triển đất nước và thông lệ quốc tế. Cải cách hành
chính của bộ máy nhà nước, các bộ, ngành, địa phương đã được đẩy mạnh; tổ chức bộ máy nhà nước được kiện toàn, tinh giản biên
chế được đẩy mạnh và đạt kết quả bước đầu. Thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình, đối thoại, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo… Tiếp tục hoàn thiện
phương thức hoạt động và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Kỷ luật,
kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước được tăng cường; đề cao trách
nhiệm của người đứng đầu; tinh thần và thái độ làm việc của cán bộ, công
chức theo hướng phục vụ người dân, doanh
nghiệp đã được nâng lên. Chế tài xử lý vi phạm được hoàn thiện hơn.
Cải cách thủ tục hành chính đạt những kết quả tích cực. Các cấp, các ngành tập trung cải cách thủ tục
hành chính, bảo đảm thống nhất, đồng bộ, đơn giản, minh bạch, phù hợp với thông
lệ quốc tế. Nhiều thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, danh mục sản phẩm
hàng hoá kiểm tra chuyên ngành đã được cắt giảm, đơn giản hoá. Quy định về thủ
tục hành chính được kiểm soát chặt chẽ ngay từ khi xây dựng, ban hành văn bản
quy phạm pháp luật. Tích cực xây dựng Chính phủ, chính quyền điện tử, cung cấp
dịch vụ công trực tuyến được đẩy nhanh, tăng cường họp, làm việc trực tuyến,
xử lý hồ sơ công việc trên môi trường điện tử; cơ chế một cửa, một cửa liên
thông, một cửa quốc gia, một cửa ASEAN tiếp tục được duy trì, mở rộng, cải thiện
về chất lượng, hiệu quả hoạt động.
Công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo, phòng, chống tham nhũng, lãng phí được đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, phát hiện và chấn chỉnh,
xử lý nhiều vụ việc vi phạm, thu hồi số lượng lớn tiền và tài sản về cho Nhà
nước. Công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo được quan tâm hơn,
xử lý kịp thời nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài, vượt cấp và hạn chế phát sinh
mới. Đã tập trung chỉ đạo xử lý nghiêm và công khai kết quả xử lý nhiều vụ việc
tham nhũng, góp phần củng cố niềm tin trong nhân dân.
8. Về kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng,
an ninh và đối ngoại, hội nhập quốc tế
Bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi
mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự,
an toàn xã hội và nền văn hoá, góp phần giữ vững ổn định chính trị, tạo môi
trường hoà bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước. Chủ động ngăn ngừa
các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa và triệt tiêu các yếu tố bất
lợi, nhất là các yếu tố có thể gây ra đột biến.
Nền quốc
phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, thế trận an
ninh nhân dân và khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố được củng cố ngày càng vững
chắc; sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang được củng cố và nâng cao. Đã tập
trung xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại; một số quân chủng, binh chủng, lực lượng có mặt tiến
nhanh lên hiện đại đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, đóng góp vào hoạt động duy trì hoà bình ở khu vực và trên thế giới;
là lực lượng nòng cốt, xung kích trong công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh
quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, phòng, chống thiên tai, thảm hoạ,
tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ; giúp đỡ nhân dân xoá đói, giảm nghèo, xây dựng đời
sống văn hoá và nông thôn mới, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,
vùng đặc biệt khó khăn. Bước đầu hình thành hệ thống pháp luật, các chiến lược, đề án về quốc phòng, an ninh và cơ sở vật chất cho việc bảo đảm an ninh mạng, an toàn
thông tin quốc gia, không gian mạng quốc gia.
Việc kết hợp
phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh ngày càng chặt chẽ; thực
hiện có hiệu quả các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng, ngành,
lĩnh vực kinh tế trọng điểm, tạo tiềm lực, cơ sở vật chất, góp phần tăng cường
quốc phòng, an ninh. Phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền
biển, đảo; triển khai xây dựng, phát huy tốt vai trò nòng cốt của các khu
kinh tế - quốc phòng, tham gia phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn chiến
lược, biên giới, biển, đảo, kết hợp với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh,
đối ngoại. Công nghiệp quốc phòng, an ninh từng bước phát triển theo hướng hiện
đại, lưỡng dụng, đáp ứng một phần nhu cầu vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực
lượng vũ trang và góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Đối ngoại và
hội nhập quốc tế đã được triển khai chủ động, tích cực, toàn diện, đồng bộ và
đạt kết quả quan trọng trên nhiều mặt; cùng với quốc phòng, an ninh gìn giữ môi
trường hoà bình, ổn định, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế; là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã
hội và gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, góp phần bảo vệ đất nước từ sớm, từ
xa. Xây dựng và quản lý biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển với
các nước láng giềng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết các tranh chấp
biên giới lãnh thổ bằng biện pháp hoà bình, trên cơ sở tiến trình ngoại giao và
luật pháp quốc tế, thúc đẩy thực hiện đầy đủ Tuyên bố của các bên trên Biển
Đông.
Tư duy và chiến
lược về đối ngoại và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới, đi vào thực chất
hơn, triển khai đồng bộ đối ngoại song phương và đa phương. Đối ngoại đa phương
có bước chuyển biến quan trọng. Quan hệ với các đối tác tiếp tục được mở rộng,
đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả hơn; quan hệ với một số quốc gia được
nâng cấp thành đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, tin cậy chính trị, đan
xen lợi ích với các đối tác chủ chốt được tăng cường.
Hội nhập quốc
tế được đẩy mạnh toàn diện, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm,
đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường sức mạnh tổng
hợp quốc gia; ký kết và triển khai nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới,
góp phần quan trọng mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá thị trường, thu hút
nhiều nguồn lực cho phát triển, thúc đẩy nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu
rộng với kinh tế khu vực và thế giới. Ngoại giao kinh tế phối hợp chặt chẽ với
ngoại giao chính trị, ngoại giao văn hoá. Năng lực giải quyết các tranh chấp
quốc tế về thương mại và đầu tư được nâng lên. Tích cực tham gia các cơ chế,
thiết chế của Liên hợp quốc về hoạt động gìn giữ hoà bình, huấn luyện, diễn tập chung về hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ
thảm hoạ, tìm kiếm cứu nạn; hợp tác quốc tế khắc phục hậu quả chiến tranh.
Công tác bảo
hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài được quan tâm hơn, nhất là
trong thời gian dịch bệnh Covid-19; thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp bảo vệ
tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam ở
nước ngoài. Thực hiện có hiệu quả chính sách thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc,
đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
II- HẠN CHẾ, YẾU KÉM
1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu đề ra; GDP tăng bình quân
khoảng 5,9%/năm giai đoạn 2011 - 2020 so với mục tiêu Chiến lược là 7 - 8%/năm và thấp hơn so với hai
giai đoạn trước. GDP bình quân đầu người năm 2020 tăng thêm khoảng 1.420 USD so với năm 2010, thấp hơn nhiều nước trong khu vực. Quy mô nền kinh tế của nước ta đứng thứ sáu, trong khi quy mô
dân số xếp thứ ba trong các nước ASEAN. Nền tảng vĩ mô, khả năng chống chịu của nền kinh tế chưa thật vững chắc,
năng lực cạnh tranh và tính tự chủ của nền
kinh tế còn hạn chế, cán cân thương mại phụ thuộc nhiều vào khu vực đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
Tỉ lệ tích luỹ tài sản giai đoạn 2011 - 2020
đạt 27% GDP, thấp hơn các nước trong khu vực.
2. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với
đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Phương thức
tăng trưởng thay đổi chưa rõ rệt, vẫn còn dựa vào gia tăng số lượng vốn đầu tư,
lao động và các nguồn lực đầu vào khác; chất lượng tăng trưởng có mặt chậm được
cải thiện, chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế phát triển. Công nghiệp hỗ trợ
phát triển chậm, nguyên vật liệu, linh kiện phục vụ sản xuất trong nước còn phụ
thuộc lớn vào bên ngoài; chưa quan tâm đúng mức đến chuỗi giá trị và cung ứng
trong nước.
Cơ cấu lại đầu
tư, trọng tâm là đầu tư công, chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng lãng phí, chất lượng công trình thấp
chưa được giải quyết triệt để. Chất lượng thể chế quản lý đầu tư công còn thấp so
với mức trung bình của các nước ASEAN-4, nhất là về công tác thẩm định, lựa chọn dự án và
giám sát thực hiện đầu tư. Công tác quản lý tài
chính, tài sản công, đất đai ở một số cơ quan, đơn vị còn kém hiệu quả.
Cổ phần hoá, thoái vốn tại doanh nghiệp nhà nước còn chậm,
chỉ mới tập trung vào việc sắp xếp, thu gọn số lượng doanh nghiệp, hiệu quả
quản trị doanh nghiệp chưa đạt yêu cầu; thiếu chiến lược phát triển doanh
nghiệp; hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp còn thấp, chưa tương xứng với vị thế, nguồn lực
đang nắm giữ. Số lượng doanh nghiệp tư nhân còn ít, quy mô chủ yếu là doanh
nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, trình độ quản trị và công nghệ lạc hậu; khả năng cạnh
tranh và hiệu quả hoạt động thấp; mức độ sẵn sàng cho hội nhập và liên kết với
khu vực đầu tư nước ngoài còn hạn chế. Đội ngũ
doanh nhân phát triển chưa tương xứng với yêu cầu phát triển. Tổ chức kinh tế
tập thể, hợp tác xã phần lớn có quy mô nhỏ, năng lực nội tại còn yếu.
Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng còn đối mặt với nhiều
khó khăn, thách thức. Quy mô và năng lực tài chính của
hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam nhỏ so với khu vực; năng lực cạnh tranh và mức độ lành
mạnh tài chính của một số tổ chức tín dụng còn hạn chế. Mức độ an toàn của hệ thống các tổ
chức tín dụng chưa bền vững so với các
nước trong khu vực[62]; dễ bị tổn thương trước tác
động bất lợi, đột ngột từ bên ngoài. Việc
thực hiện cơ cấu lại các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước gặp khó
khăn về bổ sung vốn điều lệ. Năng lực quản trị điều hành, quản trị rủi ro
của các tổ chức tín dụng còn hạn chế; xử lý nợ xấu còn một số khó khăn, vướng
mắc; tiến độ cơ cấu lại một số tổ chức tín dụng phi
ngân hàng có cổ đông lớn là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước còn chậm[63].
Công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn chủ yếu đang hoạt động
ở phân khúc thấp trong chuỗi giá trị, tỉ lệ nhập khẩu nguyên, nhiên liệu còn
lớn, trình độ công nghệ sản xuất nhìn chung vẫn thấp so với thế giới; chưa hình thành được mô hình các cụm ngành
chuyên môn hoá, công nghiệp hỗ trợ, tỉ lệ nội địa hoá còn ở mức thấp.
Cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông
thôn gắn với xây dựng nông thôn mới ở một số địa phương chuyển biến chưa rõ nét
và thiếu bền vững. Đổi mới tổ chức sản xuất còn chậm, việc sắp xếp đổi mới công
ty nông, lâm nghiệp hiệu quả thấp. Sản xuất nông nghiệp vẫn còn manh mún, tập
trung, tích tụ ruộng đất còn khó khăn; kinh tế hộ nhỏ lẻ là chủ yếu. Thị
trường tiêu thụ nông sản thiếu ổn định, chất lượng và khả năng cạnh tranh một
số mặt hàng còn thấp.
Tốc độ tăng trưởng của khu vực
dịch vụ chưa tương xứng tiềm năng, lợi thế. Phát triển du lịch còn một số hạn chế, chưa bảo đảm tính bền vững; chất
lượng dịch vụ du lịch chưa đáp ứng yêu cầu. Hệ thống phân phối còn bất cập, chưa kết nối hiệu
quả, thông suốt từ khâu sản xuất đến tiêu thụ, chi phí logistics cao hơn mức bình quân thế giới.
3. Khoa học, công
nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực để nâng cao năng suất
lao động, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Trình độ khoa học, công nghệ quốc gia nhìn chung còn
khoảng cách so với nhóm đầu khu vực. Hiệu quả nghiên cứu khoa học, công nghệ và
ứng dụng kết quả nghiên cứu chưa cao. Năng lực nghiên cứu ứng dụng của các viện
nghiên cứu, trường đại học còn khiêm tốn. Việc chuyển giao các kết quả nghiên
cứu khoa học, đặc biệt là các kết quả phát triển công nghệ từ nguồn vốn hỗ trợ
của Nhà nước cho doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn. Năng
lực hấp thụ công nghệ, đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp
trong nước còn nhiều hạn chế. Doanh nghiệp chưa thực sự là trung tâm, đóng
vai trò quyết định cho đổi mới sáng tạo. Nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực sản
xuất vẫn đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới. Mối
liên kết giữa nghiên cứu với đào tạo, giữa nghiên cứu với thị trường và doanh
nghiệp còn yếu.
Thiếu cơ chế, chính sách phù hợp hỗ trợ thúc đẩy khởi
nghiệp sáng tạo và doanh nghiệp thực hiện đổi mới, ứng dụng công nghệ, đặc biệt
là các công nghệ tiên tiến, thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Chưa khuyến khích, nuôi dưỡng và phát triển được nhiều các phát minh, sáng chế
trở thành sản phẩm cuối cùng và thương mại hoá. Đầu tư cho khoa học, công nghệ
hiệu quả chưa cao. Việc xã hội hoá các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ
công lập còn chậm.
Đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ tuy có tăng
về số lượng nhưng thiếu các nhà khoa học đầu ngành, chưa đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; cơ chế đãi ngộ còn bất cập. Cơ sở vật chất kỹ thuật và trang
thiết bị cho hoạt động khoa học, công nghệ còn thiếu và chưa đồng bộ.
4. Thực hiện các đột
phá chiến lược còn chậm; việc tạo nền tảng để đến
năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa
đạt mục tiêu đề ra
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa đồng
bộ, đầy đủ để bảo đảm thị trường vận hành thông suốt, hiệu quả, chưa thực sự
đáp ứng yêu cầu thúc đẩy nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập. Thị trường
chưa là cơ sở, căn cứ để huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển trong một
số lĩnh vực. Nhiều quy định pháp luật, cơ chế, chính sách còn chồng chéo, thiếu
chặt chẽ, chưa ổn định. Thực thi pháp luật chưa hiệu quả, chấp hành
pháp luật có nơi chưa nghiêm, việc giám sát chưa chặt chẽ, chi phí tuân thủ
pháp luật còn cao. Thiết chế pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
doanh nghiệp trong kinh doanh yếu, tăng rủi ro cho doanh nghiệp. Pháp luật về sở hữu và
quyền tài sản, bảo đảm quyền tự do kinh doanh còn hạn chế; hiệu quả giải quyết
tranh chấp, xử lý vi phạm chưa cao. Một số thị trường chậm phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, nhất
là thị trường quyền sử dụng đất và thị trường khoa học, công nghệ.
Công tác cải cách hành chính
trong một số lĩnh vực vẫn chưa thực chất; hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành
chính và phân cấp, phân quyền cải thiện còn chậm; còn tình trạng đùn đẩy công
việc, trách nhiệm… Thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh trên một số lĩnh vực
còn chồng chéo, rườm rà, phức tạp. Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự
thông thoáng, an toàn, lành mạnh. Kết quả cải cách hành chính chưa đồng đều giữa các bộ,
ngành, địa phương.
Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu
cầu phát triển. Hiệu quả giáo dục và đào tạo còn hạn chế, nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa quan tâm
đúng mức các kỹ năng xã hội, kỹ năng sống, kỹ năng sáng tạo, khả năng tự học… Cơ cấu đào tạo chưa thực sự gắn với
nhu cầu của thị trường và chưa đáp ứng kịp thời cho Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư. Nguồn nhân lực chất lượng cao tăng chậm, chưa thực sự đáp ứng được yêu
cầu của người sử dụng lao động; thiếu nhân lực chất lượng cao ở nhiều lĩnh vực,
ngành nghề. Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý
giáo dục có nơi còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Chưa gắn kết
chặt chẽ, toàn diện giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển, ứng dụng
khoa học, công nghệ.
Hệ thống kết cấu hạ tầng còn hạn chế, chưa theo kịp yêu
cầu phát triển, chất lượng chưa cao, chưa bảo đảm tính đồng bộ, ảnh hưởng đến
hiệu quả khai thác, vận hành. Kết cấu hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, tính kết
nối giữa các loại hình vận tải chưa cao. Đầu tư mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực đường bộ, chưa quan tâm đúng mức
đến đường sắt, đường thuỷ. Đến năm 2020 có khoảng 1.400 km đường cao
tốc, chưa đạt mục tiêu đề ra. Hạ tầng năng lượng còn thiếu tính đồng bộ, kết
nối và truyền tải điện tại một số khu vực chưa đáp ứng yêu cầu, chưa có cơ chế
để tư nhân tham gia đầu tư phát triển truyền tải điện; một số dự án điện quan
trọng chậm tiến độ, việc phát triển năng lượng tái tạo và năng lượng thay thế
còn bất cập. Việc đầu tư các công trình hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu
còn chậm. Hạ tầng công nghệ thông tin ở một số địa phương chưa đồng bộ, nhất là
vùng sâu, vùng xa. Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia cho phát triển
chính phủ điện tử triển khai chậm và bảo đảm an toàn an ninh thông tin chưa
cao. Hạ tầng đô thị kém chất lượng, thiếu đồng bộ, chưa theo kịp sự gia tăng
dân số và sự phát triển của đô thị. Hạ tầng cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản
ở cả thành thị và nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, miền núi, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số còn thiếu và chất lượng chưa cao. Hạ tầng văn hoá, xã hội
phát triển chưa đồng bộ; chất lượng, hiệu quả chưa cao.
Về tạo nền tảng đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại: Nhiều tiêu chí để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại dự kiến không đạt, như GDP bình quân đầu
người, giá trị gia tăng công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân đầu người, tỉ
trọng nông nghiệp trong GDP, tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động
xã hội, tỉ lệ đô thị hoá, chỉ số phát triển con người, chỉ số bất bình đẳng thu
nhập, tỉ lệ lao động qua đào tạo, tỉ lệ dân số sử dụng nước sạch...
5. Về phát triển vùng, kinh tế biển,
đô thị, xây dựng nông thôn mới
Chênh lệch phát triển và thu nhập giữa các vùng chậm được thu hẹp. Tác động lan toả và liên
kết của các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng khác chưa rõ nét. Một số khu
kinh tế ven biển, khu kinh tế cửa khẩu phát triển chưa đạt mục tiêu đề ra.
Thiếu cơ chế, chính sách phù hợp để phát triển kinh
tế vùng và điều phối liên kết vùng hiệu quả; không gian phát triển bị chia cắt,
đầu tư còn chồng chéo, trùng lặp; chưa khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của từng vùng, địa
phương. Việc giải quyết những vấn đề có tính liên vùng như ô nhiễm môi trường, kết cấu hạ tầng… còn khó khăn, vướng
mắc.
Phát triển
kinh tế biển chưa gắn kết hài hoà với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
Một số chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế biển chưa đạt mục tiêu đề ra.
Nhiều ngành kinh tế biển phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và
yêu cầu phát triển của đất nước. Chưa xây dựng được thương cảng quốc tế và tập
đoàn kinh tế mạnh tầm cỡ khu vực. Kết nối phát triển kinh tế biển với vùng ven
biển và nội địa còn thiếu chặt chẽ, kém hiệu quả. Một số tài nguyên biển bị
khai thác quá mức; các hệ sinh thái biển, đa dạng sinh học biển bị suy giảm.
Công tác bảo đảm an ninh, an toàn trên biển còn nhiều khó khăn, thách thức; ứng
phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, biển xâm thực chưa đáp ứng yêu cầu.
Việc tổ chức quản lý, điều phối phát triển kinh tế biển chưa thực sự tập trung,
hiệu quả.
Chất lượng
phát triển đô thị chưa cao; hệ thống kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, nhất là
giao thông, thoát nước, xử lý nước thải, rác thải, hạ tầng xã hội; năng lực,
trình độ quản lý thấp, chậm đổi mới; còn tình trạng ùn tắc giao thông, úng
ngập, ô nhiễm môi trường, nhiều nơi thiếu, quá tải dịch vụ xã hội... Quỹ đất
dành cho giao thông tĩnh còn ít, thiếu công viên, cây xanh, các điểm vui chơi,
giải trí... Đô thị hoá đất đai nhanh hơn đô thị hoá dân số; sử dụng đất đô thị
chưa hiệu quả. Mật độ đô thị thấp, manh mún, đặc biệt là vùng ven Thủ đô Hà Nội
và Thành phố Hồ Chí Minh. Thiếu kết cấu hạ tầng giao thông kết nối đô thị và
nông thôn, giữa trung tâm và các khu vực mở rộng ven đô. Kết nối giữa các đô
thị với chuỗi cung ứng hàng hoá, dịch vụ, logistics còn yếu; người nhập cư khó
tiếp cận các dịch vụ cơ bản và các cơ hội việc làm ở đô thị... làm giảm hiệu
quả kinh tế của đô thị, sức cạnh tranh khu vực và quốc tế của các đô thị lớn
chưa cao.
Quản lý phát
triển đô thị còn nhiều bất cập, chất lượng quy hoạch đô thị thấp, thiếu bản
sắc, kiến trúc riêng, thực hiện quy hoạch chưa nghiêm; chưa chú trọng tổ chức
dịch vụ công, dịch vụ xã hội cơ bản tại một số khu vực đô thị mới phát triển.
Việc định giá đất chưa theo cơ chế thị trường, chưa sát với thực tiễn, chưa
minh bạch trong đánh giá giá trị đất đai, bất động sản và chuyển mục đích,
quyền sử dụng đất; thất thoát nguồn lực từ đất đô thị còn lớn. Chính sách nhà ở đô thị chưa đồng bộ, phù hợp; phát
triển nhà ở xã hội chưa đạt mục tiêu đề ra.
Kết quả xây dựng nông thôn mới ở một số địa
phương chưa thực sự bền vững, nhất là về sinh kế và nâng cao thu nhập người
dân; nhiều nơi mới chú trọng đến hạ tầng, ít quan tâm đến sản xuất, kinh doanh.
Sự gắn kết giữa xây dựng nông thôn mới và cơ cấu lại nông nghiệp chưa chặt chẽ.
Kết quả thực hiện tiêu chí về tổ chức sản xuất ở nông thôn chưa cao. Ô nhiễm
môi trường ở một số khu vực nông thôn còn trầm trọng, chậm được giải quyết,
nhất là xử lý chất thải. Bản sắc văn hoá truyền thống nông thôn trên một số địa
bàn bị mai một.
6. Việc thực hiện
các mục tiêu phát triển văn hoá, xã hội và con người còn một số hạn chế. Việc quan tâm phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội chưa tương xứng với phát triển kinh tế, chưa đủ mức tác động
hiệu quả trong việc xây dựng con người mới, xây dựng môi trường văn hoá lành
mạnh. Đời sống văn hoá tinh thần ở một số nơi còn nghèo nàn, đơn điệu. Mức
hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, miền còn khoảng cách lớn. Môi trường văn hoá
có nơi còn diễn biến phức tạp, xuất hiện những biểu hiện tiêu cực, xuống cấp về
đạo đức, lối sống.