BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
KHÓA XII
*
|
|
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2020
|
DỰ THẢO BÁO CÁO TỔNG KẾT THỰC HIỆN CHIẾN
LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 10 NĂM 2011
- 2020, XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 10 NĂM 2021 -
2030
-----
Phần
thứ nhất
KẾT
QUẢ THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 2011 - 2020
Bước vào thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 10 năm 2011 - 2020, tình hình thế giới, khu vực
diễn biến phức tạp hơn dự báo. Khủng hoảng nợ công diễn ra trầm trọng hơn ở
nhiều quốc gia, kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn; rủi ro trên thị trường tài
chính, tiền tệ quốc tế gia tăng; nhiều nước tăng cường bảo hộ thương mại trong
những năm gần đây. Khoa học, công nghệ phát triển nhanh, Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư và kinh tế số trở thành một trong những xu hướng phát triển chủ yếu
của thời đại. Vào năm cuối kỳ Chiến lược đã xảy ra đại dịch
Covid-19 trên toàn cầu ảnh hưởng rất nghiêm trọng, chưa từng có trong nhiều thập
kỷ, kinh tế thế giới rơi vào tình trạng suy thoái, hậu quả kéo dài nhiều năm.
Ở trong
nước, những năm đầu thời kỳ Chiến lược, nền kinh tế tiềm ẩn nhiều rủi ro, lạm
phát cao, nợ công tăng nhanh, tỉ lệ nợ xấu
cao; sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Tác động, ảnh hưởng từ bên
ngoài tăng, cạnh tranh ngày càng gay gắt, trong khi độ mở của nền kinh tế cao,
sức chống chịu còn hạn chế. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh diễn biến
phức tạp hơn. Đặc biệt trong năm 2020, đại dịch
Covid-19 đã ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến hầu hết các ngành, lĩnh vực, các hoạt
động kinh tế, xã hội bị ngưng trệ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Trước tình hình
đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã chung sức, đồng lòng, nỗ lực vượt bậc,
quyết liệt, kịp thời, nhất là trong năm 2020 tập trung vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa duy trì, phục hồi, phát triển kinh
tế - xã hội, vượt qua khó khăn, thách thức, huy động sự vào cuộc
của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước, thực
hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra và đạt được
nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực.
I- KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Về kinh tế vĩ mô
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức độ khá cao. Giai đoạn 2011 - 2015, tốc
độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt bình quân 5,9%/năm, giai đoạn 2016 - 2019 tăng trưởng đạt
6,8%/năm, năm 2020 do dịch bệnh Covid-19 tốc độ tăng trưởng ước đạt trên 2%, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt khoảng 5,9%/năm.
Tính chung cả thời kỳ Chiến lược 2011 - 2020, tăng
trưởng GDP dự kiến đạt khoảng 5,9%/năm, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới.
Quy mô GDP tăng gấp 2,4 lần, từ 116 tỉ USD năm 2010 lên 268,4 tỉ USD vào năm 2020.
GDP bình quân đầu người tăng từ 1.331 USD năm 2010 lên khoảng 2.750 USD năm
2020.
Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động được nâng lên rõ
rệt. Tăng trưởng kinh tế giảm
dần phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, mở rộng tín dụng; từng bước dựa vào
ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tỉ trọng giá trị xuất khẩu
sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá tăng từ 19% năm
2010 lên khoảng 50% năm 2020. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP)
vào tăng trưởng tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011 - 2015 lên 45,2% giai đoạn 2016 - 2020, tính chung
10 năm 2011 - 2020 đạt 39,0%, vượt mục
tiêu Chiến lược đề ra (35%). Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn
2011 - 2015 là 4,3%/năm, giai đoạn 2016 - 2020 là 5,8%/năm. Hiệu quả đầu tư
được nâng lên; hệ số ICOR giảm từ gần 6,3 giai đoạn 2011 - 2015 xuống còn
khoảng 6,1 giai đoạn 2016 - 2019.
Kinh tế vĩ mô ổn
định vững chắc hơn, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, các cân đối lớn của nền
kinh tế được cải thiện đáng kể. Thực hiện chủ động,
linh hoạt, đồng bộ, phối hợp chặt chẽ nhiều chính sách, giải pháp ổn định kinh
tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
bình quân giảm từ 18,6% năm 2011 xuống ổn định ở mức khoảng 4%/năm giai đoạn
2016 - 2020. Lạm phát cơ bản giảm từ 13,6% năm 2011 xuống khoảng 2,5%
năm 2020. Thị trường tiền tệ, ngoại hối cơ bản ổn định; bảo đảm
vốn tín dụng cho nền kinh tế, tập trung cho lĩnh vực sản xuất, nhất là các
ngành ưu tiên.
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng
hoá tăng 3,6 lần, từ 157,1 tỉ USD năm 2010 lên 517 tỉ USD năm 2019, năm 2020 do ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh
Covid-19 đạt khoảng 527 tỉ USD, tương đương trên 190% GDP. Xuất khẩu tăng
nhanh, từ 72,2 tỉ USD năm 2010 lên khoảng 267 tỉ USD năm 2020, tăng bình quân
khoảng 14%/năm, là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Thị trường xuất
khẩu được mở rộng; nhiều doanh nghiệp tham gia sâu rộng vào chuỗi giá trị khu
vực, toàn cầu; góp phần nâng cao năng lực xuất khẩu và sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Cán cân thương mại được cải thiện rõ rệt, chuyển từ thâm hụt 12,6 tỉ
USD năm 2010 sang cơ bản cân bằng và có thặng dư vào những năm cuối kỳ Chiến
lược. Cán cân thanh toán quốc tế thặng dư; dự trữ ngoại hối tăng từ 12,4 tỉ USD
năm 2010 lên 28 tỉ USD năm 2015 và đạt trên 80 tỉ USD vào cuối kỳ Chiến lược.
Kỷ luật,
kỷ cương tài chính - ngân sách nhà nước được tăng cường. Cơ cấu thu,
chi ngân sách nhà nước chuyển biến tích cực theo hướng tăng tỉ trọng thu nội
địa, tăng tỉ trọng chi đầu tư phát triển và giảm tỉ trọng chi thường
xuyên. Bội chi ngân sách nhà nước giảm từ mức bình quân 5,4% GDP giai đoạn 2011 -
2015 xuống còn 3,5% GDP giai đoạn
2016 - 2019; riêng năm 2020 tỉ lệ bội chi là 4,99% GDP. Tỉ lệ nợ công so với
GDP tăng từ 51,7% cuối năm 2010 lên 63,7% năm 2016, do huy động thêm nguồn lực
để thực hiện đột phá chiến lược về kết cấu hạ tầng. Từ năm 2017, nhờ giảm bội
chi ngân sách nhà nước, siết chặt quản lý vay và bảo lãnh chính phủ, nợ công
bắt đầu giảm; tỉ lệ nợ công đến năm 2019 giảm còn 55% GDP, năm 2020 nợ công
tăng lên 56,8%, nhưng vẫn giữ được ổn định kinh tế vĩ mô và cải thiện hệ số tín
nhiệm quốc gia.
Các cân đối lớn của nền kinh tế về tích luỹ - tiêu dùng,
tiết kiệm - đầu tư, năng lượng, lương thực… tiếp tục được bảo đảm, góp phần
củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mô. Tỉ lệ tiết kiệm so với GDP giai đoạn
2011 - 2020 bình quân đạt khoảng 29%.
Huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển được đẩy mạnh, đầu tư khu vực
ngoài nhà nước tăng nhanh và chất lượng, hiệu quả được cải thiện. Vốn đầu tư phát triển giai đoạn
2011 - 2020 đạt gần 15 triệu tỉ đồng (tương đương 682 tỉ USD), tăng bình quân
10,6%/năm, trong đó vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ là 3,1 triệu
tỉ đồng (144 tỉ USD), chiếm 20,8% tổng đầu tư xã hội, tập trung cho các công
trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trọng điểm, nhất là giao thông, thuỷ
lợi, giáo dục, y tế, nông nghiệp, nông thôn, giảm nghèo, an ninh, quốc phòng...
góp phần quan trọng thay đổi diện mạo đất nước, tạo động lực cho phát triển và
thu hút các nguồn lực ngoài nhà nước.
Vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà
nước trong nước chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong tổng đầu tư xã hội, tăng từ 36,1% năm 2010 lên 45,7% năm 2020. Một số tập đoàn, doanh nghiệp
tư nhân đã tham gia đầu tư, hoàn thành nhiều công trình, dự án lớn, góp phần thúc đẩy phát triển
sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Nhiều dự án hạ tầng theo phương thức đối tác công
- tư (PPP) được triển khai thực hiện, nhất là trong lĩnh vực giao thông.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh; đã thu hút
được nhiều dự án quy mô lớn, công nghệ cao. Tổng số vốn đăng ký giai đoạn 2011 - 2020 đạt trên 278
tỉ USD; vốn thực hiện đạt 152,3 tỉ USD, tăng gần 6,9%/năm, chiếm 22,8% tổng vốn
đầu tư toàn xã hội.
2. Về cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng
Các trọng tâm
cơ cấu lại về đầu tư, các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp nhà nước được tập
trung thực hiện và đạt kết quả tích cực. Chuyển
căn bản từ kế hoạch đầu tư công hằng năm sang kế hoạch đầu tư công trung hạn
gắn với kế hoạch hằng năm; lồng ghép, huy động các nguồn lực để thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Phân bổ vốn đầu tư được gắn với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế; vốn đầu tư nhà nước tập trung nhiều hơn vào các công trình quan trọng, thiết yếu để đẩy nhanh tiến độ, đi vào khai thác. Tỉ trọng
vốn đầu tư nhà nước trong tổng đầu tư giảm từ 38,1% năm 2010 xuống 30,9% năm 2020 (mục tiêu là 31 - 34%). Kỷ luật, kỷ cương trong
đầu tư công được tăng cường, từng bước ngăn chặn tình trạng phê duyệt dự án
vượt quá khả năng cân đối vốn, đầu tư dàn trải, hạn chế nợ đọng xây dựng cơ
bản, góp phần chống thất thoát, lãng phí trong việc sử dụng các nguồn lực tài
chính quốc gia.
Cơ cấu lại các tổ
chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu được triển
khai đồng bộ, hiệu quả hơn, bảo đảm ổn định, an toàn hệ thống. Khung khổ pháp lý về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng từng bước
được hoàn thiện, tiệm cận với chuẩn mực, thông lệ quốc tế và phù hợp với điều
kiện thực tiễn của Việt Nam. Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu được triển khai quyết
liệt và đạt kết quả tích cực; số lượng các tổ chức tín dụng có quy mô nhỏ,
hoạt động yếu kém giảm dần; tỉ lệ nợ xấu giảm từ 17,2% năm
2012 xuống dưới 3% đến cuối năm 2020; bảo đảm an toàn hệ thống. Tính minh bạch được cải thiện; sở hữu chéo, đầu
tư chéo trong các tổ chức tín dụng đã từng bước được xử lý; tình trạng cổ
đông/nhóm cổ đông lớn thao túng, chi phối ngân hàng về cơ bản được kiểm soát. Thanh toán điện tử có xu hướng tăng lên, thanh toán bằng
tiền mặt giảm dần. Cơ cấu thị trường tài chính có sự điều chỉnh hợp lý hơn. Quy mô thị
trường chứng khoán tăng mạnh từ 19,3% GDP
năm 2011 lên 72,6% GDP năm 2019, năm 2020 mặc dù ảnh hưởng của dịch bệnh
Covid-19 có giảm sâu vào đầu năm nhưng đã có xu hướng phục hồi, dự báo đạt
khoảng 85% GDP.
Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước
được đẩy mạnh, thực chất hơn; tập trung vào cổ phần hoá, thoái vốn và nâng cao
hiệu quả hoạt động. Số lượng doanh nghiệp nhà nước được thu gọn, tập trung vào
những ngành, lĩnh vực then chốt. Một số doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò dẫn dắt
ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Giai đoạn 2011 - 2019 cổ phần hoá
được 679 doanh nghiệp nhà nước; tổng thu từ cổ phần hoá, thoái vốn đạt 303
nghìn tỉ đồng. Quản trị doanh nghiệp được cải thiện; cạnh tranh bình đẳng, công
khai, minh bạch hơn. Từng bước tách bạch chức năng quản lý nhà nước và đại diện
chủ sở hữu vốn nhà nước, đã thành lập và đưa vào hoạt động Uỷ ban Quản lý vốn
nhà nước tại doanh nghiệp. Khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã có bước phát
triển cả về số lượng và chất lượng; xuất hiện nhiều mô hình mới, hiệu quả.
Khu vực kinh tế ngoài nhà nước trong nước (bao gồm doanh nghiệp tư nhân
và kinh tế hộ gia đình) đạt tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỉ trọng 43% GDP,
thu hút khoảng 85% lao động đang làm việc của nền kinh tế, góp phần quan trọng
trong huy động các nguồn lực xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm,
tăng thu nhập cho người lao động, nhất là các lĩnh vực đầu tư,
kinh doanh du lịch, khu đô thị, sản xuất ô tô, nông nghiệp công nghệ cao,
thương mại, dịch vụ. Môi trường kinh doanh
được cải thiện, ngày càng thuận lợi hơn; cắt giảm trên 50% thủ tục hành chính,
điều kiện kinh doanh; giảm chi phí sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp tư nhân
thành lập mới tăng nhanh cả về số lượng và vốn đăng ký; tinh thần khởi nghiệp lan toả rộng rãi. Nhiều mô hình kinh doanh mới dựa
trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhất là công nghệ thông tin phát
triển mạnh mẽ trong thời gian gần đây. Đã hình thành và phát triển một số tập đoàn
kinh tế tư nhân tiên phong trong đầu tư và ứng dụng khoa học, công nghệ, có
thương hiệu và năng lực cạnh tranh trong nước, khu vực và quốc tế.
Cơ cấu kinh tế ngành và nội ngành chuyển biến
tích cực; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo và ứng dụng công
nghệ cao tăng lên. Tỉ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trong GDP giảm từ 18,9% năm 2010 xuống 14,8% năm 2020; các khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ (bao gồm cả thuế sản phẩm trừ trợ cấp) tăng tương ứng từ 81,1% lên 85,2%, vượt mục tiêu đề ra.
Cơ cấu nội ngành chuyển
dịch tích cực; trong khu vực công nghiệp, xây dựng, tỉ trọng ngành chế biến, chế tạo tăng từ 13% năm 2010 lên 16,9% năm 2020; tỉ trọng ngành khai khoáng giảm từ 9,5% xuống còn 6,2%. Tỉ trọng giá trị sản phẩm công nghệ cao và ứng dụng công nghệ cao trong
các khu vực nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ có xu hướng tăng lên.
Cơ cấu lao động chuyển dịch từ khu
vực năng suất lao động thấp sang khu vực năng suất lao động cao hơn. Tỉ trọng lao động nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
trong tổng số lao động cả nước giảm từ 48,6% năm 2010 xuống còn
34% năm 2020, đạt mục tiêu đề ra (30 - 35%). Tỉ trọng lao động ngành công nghiệp và xây dựng
tăng từ 21,7% lên 30,3%; ngành dịch vụ từ 29,7% lên khoảng 35,7% trong cùng
giai đoạn. Tỉ lệ lao động khu vực có quan hệ lao động từ 35% năm 2011 tăng lên 44,7% năm 2019 và dự kiến khoảng 45% năm 2020.
Về cơ cấu lại nông nghiệp: Cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển biến tích cực hướng vào
phát huy tiềm năng, lợi thế của vùng, miền, nhu cầu thị trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo đảm an ninh lương thực. Sản xuất
nông nghiệp được tập trung phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, hiện đại,
giá trị gia tăng cao và bền vững. Nông nghiệp vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng
khá, đạt bình quân khoảng 3%/năm.
Hình thành nhiều mô hình sản
xuất ứng dụng công nghệ cao; đầu tư của doanh nghiệp vào nông nghiệp tăng; phát triển liên kết sản xuất theo chuỗi
giá trị và
xây dựng được thương hiệu của một số nông sản chủ lực. Phát triển nông nghiệp công nghệ cao,
nông nghiệp sạch, hữu cơ được chú trọng, từng bước chuyển đổi sang cây trồng,
vật nuôi có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Khoa học, công nghệ đóng góp
trên 30% tổng giá trị gia tăng trong nông nghiệp. Chất lượng nhiều loại sản
phẩm đáp ứng yêu cầu an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế. Hình thức kinh tế hợp tác
và doanh nghiệp nông nghiệp tăng nhanh; đến năm 2020 có khoảng 15 nghìn hợp tác
xã nông nghiệp hoạt động hiệu quả và gần 12 nghìn doanh nghiệp trực tiếp sản
xuất nông nghiệp; qua đó khẳng định vai trò trung tâm thúc đẩy phát triển nông
nghiệp. Quá trình cơ cấu lại
nông nghiệp đã gắn kết chặt chẽ với xây dựng
nông thôn mới, nhất là trong phát triển hạ tầng, phát triển sản xuất, nâng cao
đời sống nhân dân khu vực nông thôn.
Chất lượng tăng trưởng ngày càng được cải thiện, tỉ lệ giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản xuất
ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đã tăng từ 55,7%
năm 2010 lên 61,1% năm 2019; năng suất lao động giai đoạn 2011 - 2020
ước tính tăng bình quân 4,73%/năm (mục tiêu đề ra là 3,5%/năm). Xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản tăng mạnh, thị trường tiêu thụ được mở rộng; kim ngạch xuất khẩu tăng từ 21,8 tỉ USD năm 2011 lên khoảng
41 tỉ USD năm 2020, tăng bình quân khoảng 7,3%/năm.
Về cơ cấu
lại khu vực công nghiệp - xây dựng: Cơ cấu các ngành công nghiệp chuyển
dịch theo hướng giảm dần tỉ trọng ngành khai
khoáng, tăng nhanh tỉ trọng ngành chế biến, chế tạo. Một số sản phẩm công nghiệp
xuất khẩu có quy mô lớn, chiếm vị trí vững chắc trên thị trường thế giới. Tỉ
trọng hàng hoá xuất khẩu qua chế biến trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá tăng
từ 65% năm 2011 lên 85% năm 2020; tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ
cao trong tổng giá trị sản phẩm công nghệ cao tăng từ 38% năm 2010 lên 77,7%
năm 2019.
Năng lực cạnh tranh toàn cầu
của ngành công nghiệp tăng từ vị trí 58 vào năm
2009 lên thứ 42 vào năm 2019, đã hình thành được một số
tập đoàn kinh tế có tiềm lực trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, nhất
là công nghiệp ô tô. Năm 2019, doanh nghiệp công nghệ cao, ứng dụng công nghệ
cao chiếm trên 13% trong tổng số doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo.
Giá trị sản phẩm công nghệ cao, ứng dụng công nghệ cao tăng từ 26% năm 2010 lên
trên 40% năm 2019. Đã hình thành một số ngành công nghiệp hỗ trợ và gia tăng tỉ lệ nội địa hoá. Phát triển các ngành công nghiệp từng bước đi vào chiều sâu; chỉ số sản xuất công nghiệp tăng bình quân khoảng 8% giai đoạn 2011 - 2020, trong đó ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo có mức tăng trưởng khoảng 10%, trở thành động lực chính cho khu vực công nghiệp và
toàn bộ nền kinh tế.
Cơ cấu lại ngành xây dựng được
tập trung thực hiện, phát huy hiệu quả; năng lực xây lắp được cải thiện; chất
lượng công trình xây dựng từng bước được nâng cao và được kiểm soát chặt chẽ
hơn. Giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng bình quân khoảng 8,3%/năm; năng suất
lao động tăng bình quân 7,9%/năm. Làm chủ được nhiều công nghệ xây dựng tiên
tiến, đưa vào ứng dụng, số lượng công trình có quy
mô lớn, công trình ứng dụng công nghệ mới, kỹ thuật cao ngày càng tăng; áp dụng
phương thức quản lý hiện đại, chuyên nghiệp.
Sản xuất vật liệu xây dựng phát triển mạnh, đáp ứng nhu cầu trong nước,
một phần xuất khẩu. Chất lượng và sức cạnh tranh của nhiều sản phẩm vật liệu
được cải thiện đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, trong đó một số sản phẩm có thể cạnh
tranh với khu vực và thế giới.
Về cơ cấu lại khu vực dịch vụ: Cơ cấu lại khu vực dịch vụ được triển khai tích cực theo
hướng nâng cao chất lượng, tập trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa
dạng các loại hình dịch vụ. Một số
ngành, lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao được đẩy mạnh và từng bước hiện
đại hoá, như công nghệ thông tin, truyền thông,
thương mại điện tử, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, y tế, hàng
không… Số lao động làm việc trong khu vực dịch vụ tăng từ 14,5 triệu lao động năm 2010 lên khoảng 19 triệu lao động vào năm
2020. Giai đoạn 2011 - 2020, tăng trưởng của ngành dịch vụ ước đạt 6,4%/năm,
cao hơn tăng trưởng chung của nền kinh tế (5,9%/năm).
Ngành du lịch đã có bước phát triển rõ rệt và đạt được
những kết quả quan trọng, cơ bản trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn, số lượng khách quốc
tế tăng nhanh, từ 5 triệu lượt năm 2010 lên 18 triệu lượt năm 2019, bình quân tăng khoảng 15%/năm, đóng góp trực tiếp
khoảng 10% GDP. Năm 2020, dịch bệnh Covid-19 đã tác động rất nghiêm
trọng đến ngành du lịch và nhiều ngành dịch vụ như giao thông vận tải, hàng
không, khách sạn, ăn uống, giải trí…, số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam
giảm mạnh.
3. Về các đột phá chiến lược
Thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập,
trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, thuận lợi. Đã hoàn thiện căn bản hệ thống pháp luật về kinh tế khá
đầy đủ, tạo cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình sở hữu hoạt
động. Ban hành Hiến pháp năm 2013 và tập trung sửa đổi, hoàn thiện các luật,
pháp lệnh và văn bản quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành, nhất là trong các lĩnh vực đầu tư, doanh nghiệp,
đất đai, môi trường, cạnh tranh, kiểm soát độc quyền, bảo vệ người tiêu dùng, giải quyết tranh chấp, phá sản, xử lý vi phạm... Vai
trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Việc tổ chức thi hành pháp luật từng bước được tăng
cường, nhất là trong những năm gần đây.
Các yếu
tố thị trường và các loại thị trường hàng hoá, dịch vụ từng bước hình thành đồng
bộ, vận hành cơ bản thông suốt và bước đầu có sự gắn kết với thị trường khu vực
và quốc tế. Thị trường vốn, đặc biệt là thị trường chứng khoán phát triển mạnh,
trở thành một kênh huy động vốn cho nền kinh tế. Thị trường bất động sản phát
triển khá đa dạng về loại hình, chất lượng sản phẩm; quy mô tăng nhanh. Thị trường
khoa học, công nghệ hình thành, từng bước phát huy hiệu quả. Các thiết chế của
thị trường lao động từng bước được hoàn thiện, thúc đẩy dịch chuyển lao động giữa
các ngành, khu vực của nền kinh tế.
Môi
trường đầu tư kinh doanh chuyển biến rõ nét; quyền tự do, bình đẳng trong kinh
doanh, tiếp cận cơ hội kinh doanh được cải thiện; đẩy mạnh cải cách thủ tục
hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh và danh mục ngành nghề kinh doanh có
điều kiện. Vị
trí xếp hạng môi trường kinh doanh toàn cầu của Việt Nam được cải thiện đáng kể.
Phát triển nguồn nhân lực được đẩy mạnh, nhất là nhân lực
chất lượng cao, gắn kết chặt chẽ hơn với nhu cầu thị trường; phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghệ đạt kết quả tích cực.
Quy mô nguồn nhân lực được mở rộng, lực lượng lao động tăng từ 50,4 triệu người năm 2010 lên khoảng 54,6 triệu người vào năm 2020 với cơ cấu hợp lý hơn. Chất lượng nhân lực có sự cải thiện đáng
kể và phù hợp hơn với nhu cầu thị trường. Tỉ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 40% năm 2010 lên 64,5% năm 2020. Trong đó, tỉ lệ
lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ tăng từ 14,6% năm 2010 lên 24,5%
vào năm 2020. Nhân lực chất lượng cao tăng cả về
số lượng và chất lượng, trong đó một số ngành, lĩnh vực đạt trình độ khu
vực và quốc tế như công nghệ thông tin, y tế, công nghiệp xây dựng, cơ khí…
Việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo được
triển khai tích cực theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá
và hội nhập quốc tế. Xây dựng và triển khai hệ thống giáo dục quốc dân và khung
trình độ quốc gia mới. Mạng lưới
cơ sở giáo dục, đào tạo tiếp tục được mở rộng ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học.
Quan tâm phát triển giáo dục vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bảo đảm công bằng hơn trong tiếp cận giáo dục. Chương trình, sách
giáo khoa, nội dung, phương pháp giáo dục, thi cử, kiểm định chất lượng đào tạo
được đổi mới phù hợp hơn và giảm áp lực, chi phí xã hội. Chú trọng dạy và học đạo đức, kỹ
năng sống, ngoại ngữ, giáo dục thể chất. Từng bước thực hiện cơ chế tự chủ đối với cơ
sở giáo dục - đào tạo. Chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, nghề nghiệp được nâng lên; các đoàn học sinh dự thi Olympic
quốc tế và thi tay nghề đều đạt kết quả cao. Trong thời gian
dịch bệnh Covid-19, ngành giáo dục - đào tạo đã bước đầu tiếp cận dạy và học qua Internet,
truyền hình với nhiều hình thức khác nhau.
Phát triển nguồn nhân lực
gắn với khoa học, công nghệ đạt
được kết quả tích cực. Nhiều cơ sở giáo dục - đào tạo có cơ chế khuyến khích sinh viên, học viên nghiên cứu,
ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là thông qua quỹ phát triển khoa học, công nghệ. Công tác đào
tạo nhân lực đã từng bước thay đổi theo
hướng đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, người sử dụng lao động, thị
trường. Nhiều cơ sở giáo dục đại học, nghề nghiệp hợp tác chặt chẽ với doanh
nghiệp để đào tạo theo đặt hàng. Nhiều doanh nghiệp mở các cơ sở đào tạo nghề
nghiệp phục vụ trực tiếp cho doanh nghiệp và cung ứng cho thị trường.
Tiềm lực khoa học, công nghệ quốc gia
được tăng cường. Khoa học xã hội đã đóng góp tích cực vào cung cấp luận cứ cho việc hoạch định
đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách và định hướng phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Một số lĩnh vực khoa học tự nhiên đạt trình độ tiên
tiến của khu vực và thế giới. Đã chú trọng nghiên cứu ứng dụng, nâng cao năng
lực, trình độ khoa học, công nghệ. Đủ khả năng thiết kế, chế tạo thành công
nhiều công nghệ, thiết bị đạt tiêu chuẩn quốc tế. Xuất hiện nhiều mô hình sản xuất ứng
dụng công nghệ cao với sự đầu tư mạnh của các doanh nghiệp, tập đoàn lớn trong
nước và nước ngoài.
Hệ thống phòng thí nghiệm trọng điểm,
phòng thí nghiệm chuyên ngành tiếp tục được quan tâm đầu tư, nâng cao hiệu quả
hoạt động. Hạ tầng nghiên cứu trong một số lĩnh vực trọng điểm như công nghệ
sinh học, hoá dầu, vật liệu, tự động hoá, nano, công nghệ tính toán, y học…
được tăng cường. Khởi động và phát triển hệ Tri thức Việt số hoá. Hợp tác quốc
tế về khoa học, công nghệ có nhiều chuyển biến tích cực.
Thị trường khoa học, công nghệ phát
triển mạnh hơn; đã có 15 sàn giao dịch, 50 vườn ươm công nghệ. Tổng giá trị các
giao dịch mua bán công nghệ tăng mạnh hằng năm. Công tác bảo hộ và thực thi
quyền sở hữu trí tuệ được tăng cường. Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia ngày càng
tiệm cận với tiêu chuẩn quốc tế. Cơ sở dữ liệu về công nghệ và chuyên
gia được hình thành. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo phát triển khá.
Đến nay, đã có hơn 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp, gần 70 khu không gian làm
việc chung, hình thành nhiều quỹ đầu tư mạo hiểm. Số đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp tăng nhanh. Chỉ số đổi
mới sáng tạo của Việt Nam những năm gần đây tăng vượt bậc, năm 2019 xếp
thứ 42/129, tăng 17 bậc so với năm 2016, dẫn đầu nhóm quốc gia có thu nhập
trung bình thấp.
Tập trung các nguồn lực xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
đồng bộ, với các công trình hiện đại, nhất là hệ thống giao thông và hạ tầng đô
thị lớn. Nhiều công trình, dự án kết cấu
hạ tầng lớn, hiện đại trong các lĩnh vực như giao thông, năng lượng, viễn
thông, thuỷ lợi, đô thị, thương mại… được tập trung đầu tư, hoàn thành và đưa
vào khai thác. Năng lực hệ thống kết cấu hạ tầng được nâng lên đáng kể.
Nhiều công trình đường cao tốc, quốc lộ, các tuyến vành
đai tại các đô thị lớn, cảng hàng không, cảng biển quan trọng, quy mô lớn được
xây dựng, nâng cấp, góp phần làm tăng khả năng kết nối giữa các vùng, miền
trong cả nước và giao thương quốc tế. Đã hoàn thành và đưa vào khai thác, sử
dụng khoảng 1.400 km đường cao tốc, 6.000 km quốc lộ; hoàn thành dự án mở rộng
Quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh qua Tây Nguyên…, các tuyến cao tốc Hà Nội - Hải
Phòng, Hà Nội - Thái Nguyên, Hà Nội - Bắc Giang, Nội Bài - Lào Cai, Cầu Giẽ -
Ninh Bình, Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, Đà Nẵng - Quảng Ngãi...;
cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện, Cái Mép - Thị Vải. Xây dựng và nâng cấp các
cầu lớn, hầm lớn, các cảng hàng không quan trọng.
Tiếp tục khởi công nhiều đoạn của cao tốc Bắc - Nam, cảng hàng không quốc tế
Long Thành.
Hạ tầng năng lượng được tập trung
đầu tư, tăng thêm năng lực, đáp ứng yêu cầu phát triển
và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Nhiều công trình lớn (trên 1.000 MW)
được hoàn thành đưa vào sử dụng như thuỷ điện Sơn
La, Lai Châu; nhiệt điện Vĩnh Tân 2 và 4, Mông Dương 1 và 2, Vũng Áng 1,
Duyên Hải 1 và 3; đưa điện lưới ra các đảo;
đã tăng thêm 18,5 nghìn MW công suất nguồn, khoảng 7,6 nghìn km truyền tải các
loại 500 kV, 220 kV và 37,4 nghìn MVA công suất các trạm biến áp.
Hạ tầng thuỷ lợi được tập trung đầu
tư xây dựng và nâng cấp theo hướng đa mục tiêu; nhiều
dự án trọng điểm, quy mô lớn về đê điều, hồ đập,
cầu cống, kênh mương đã hoàn thành, đưa vào sử dụng, góp phần tăng năng
lực tưới tiêu, ngăn mặn, thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Hạ tầng đô thị được quan tâm đầu tư, nhất là ở các thành
phố lớn. Nhiều công trình tuyến chính ra vào thành phố, các trục giao thông hướng
tâm, các tuyến tránh đô thị, các đường vành đai đô thị, các cầu lớn và nút giao
lập thể được đầu tư xây dựng. Các chương trình cấp thoát nước, xử lý chất thải rắn
được tập trung đầu tư, đạt kết quả bước đầu.
Hạ tầng thông tin và truyền thông phát triển mạnh, hiện đại,
rộng khắp, bảo đảm kết nối với quốc tế và bước đầu hình thành siêu xa lộ thông
tin.
Từng bước xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu lớn; chính phủ điện tử được
từng bước hoàn thiện, mang lại hiệu quả thiết thực.
Hạ tầng giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ, y tế,
văn hoá, thể thao, du lịch... được quan tâm đầu tư. Nhiều dự án xây dựng trường
học, cơ sở vật chất ngành giáo dục, hạ tầng khoa học, công nghệ được tập trung
đầu tư, trong đó có các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học trọng điểm quốc gia. Xây dựng
mới, cải tạo, nâng cấp 766 bệnh viện các tuyến, 114 phòng khám đa khoa khu vực,
trên 2 nghìn trạm y tế xã... Đầu tư xây dựng mới và đưa vào sử dụng một số bệnh
viện Trung ương và tuyến cuối tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh theo hướng hiện
đại, kỹ thuật cao, ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực.
4. Về phát
triển vùng, kinh tế biển, đô thị, xây dựng nông thôn mới
Phát triển vùng đã có bước chuyển biến, khai thác tốt hơn
tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, khu vực. Tăng cường liên kết, nhiều
công trình hạ tầng kết nối vùng được hoàn thành. Các vùng kinh tế trọng điểm,
đô thị lớn tiếp tục phát huy vai trò đầu tàu trong phát triển kinh tế - xã hội,
thu hút nhiều vốn đầu tư và đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu,
thu ngân sách.
Vùng trung du và miền núi phía Bắc: Mạng lưới giao thông nội vùng và
kết nối với vùng đồng bằng Sông Hồng được đầu tư như các cao tốc nối
Hà Nội với Lào Cai, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hoà Bình, Lạng Sơn, Bắc Giang. Hoàn
thành các công trình thuỷ điện lớn Sơn La, Lai Châu. Tập trung phát triển các
ngành có lợi thế như thuỷ điện, kinh tế cửa khẩu, khai thác, chế biến khoáng sản,
nông, lâm sản, du lịch...
Vùng đồng
bằng Sông Hồng: Nhiều công trình hạ tầng quy mô
lớn được đầu tư, đưa vào khai thác như Nhà ga
T2 Nội Bài, cảng hàng không Vân Đồn,
Cát Bi, cảng Lạch Huyện, đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long -
Vân Đồn, cầu Nhật Tân, Bạch Đằng, Tân Vũ - Lạch Huyện... Thu hút nhiều dự án đầu
tư nước ngoài quy mô lớn, công nghệ cao. Du lịch phát triển nhanh tại một số địa
bàn.
Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung: Đã hoàn thành nâng cấp, mở rộng
Quốc lộ 1, cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, nâng cấp các cảng hàng không, cảng biển.
Đã thu hút được một số dự án đầu tư quy mô lớn vào các khu kinh tế, khu công
nghiệp ven biển; kinh tế biển, nhất là du lịch, khai thác hải sản… phát triển
nhanh.
Vùng Tây Nguyên: Nâng cấp, mở rộng đường Hồ Chí
Minh đoạn qua Tây Nguyên, kết nối với Đông Nam Bộ và một số tuyến đường nối Tây
Nguyên với các địa phương ven biển. Tập trung phát triển thuỷ điện, khai thác,
chế biến bô-xít, cây công nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao.
Vùng Đông Nam Bộ: Hoàn thành đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long
Thành - Dầu Giây; triển khai nâng cấp, mở rộng cảng hàng không Tân Sơn Nhất, cảng
quốc tế Cái Mép - Thị Vải… Hạ tầng đô thị được nâng cấp. Vai trò đầu tàu của
vùng được phát huy, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu, thu ngân
sách của cả nước.
Vùng đồng
bằng sông Cửu Long: Hệ thống đường bộ, đường thuỷ nội địa được nâng cấp; một
số cầu lớn được đầu tư xây dựng như Cổ Chiên, Vàm Cống, Cao Lãnh, Năm Căn… Tiếp
tục phát triển mạnh các ngành có lợi thế như nuôi trồng thuỷ, hải sản, cây ăn
quả, du lịch…
Nhận thức về phát triển kinh tế biển
gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo được nâng lên; tiềm năng, lợi thế của
biển được phát huy, nhiều địa phương có biển phát triển năng động. Đã chú trọng, tập
trung đầu tư khai thác tiềm năng, thế mạnh của các cảng hàng không, cảng biển,
phát triển dịch vụ, du lịch, đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản, đóng và
sửa chữa tàu biển, khai thác và chế biến dầu
khí… Số lượng tàu, thuyền có công suất từ 90 CV trở lên tăng từ 19,3
nghìn chiếc năm 2010 lên 37 nghìn chiếc năm 2020, công suất tăng từ 4,1 triệu
CV lên 14,6 triệu CV. Hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế biển,
đảo được cải thiện rõ rệt, nhất là các công trình điện lưới quốc gia nối với
các đảo lớn, các cảng biển, trung tâm nghề cá và các âu tàu phục vụ đánh bắt xa
bờ, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, ứng phó với biến đổi khí hậu. Làm tốt
công tác cứu hộ, cứu nạn, bảo đảm an toàn cho người lao động, ngư dân trên biển,
đảo. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân vùng biển và hải đảo được cải
thiện.
Hệ thống đô thị tăng nhanh về số lượng, mở rộng về quy mô, dần hình
thành mạng lưới đô thị, góp phần tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Chú
trọng xây dựng, nâng cao chất lượng đô thị theo hướng đồng bộ, xanh, thân thiện
với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Tỉ lệ đô thị hoá tăng từ 30,5% năm 2010 lên 39,3% năm 2020. Mạng lưới đô
thị phân bố tương đối đồng đều, trở thành hạt nhân, động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội của từng vùng và trên cả nước. Các đô thị lớn,
nhất là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh là cực tăng trưởng chủ đạo, lan toả tri thức, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh cạnh tranh, hội
nhập quốc tế, đa dạng hoá các hoạt
động kinh tế, tác động lớn đến sự phát triển nền kinh tế thị trường năng động.
Một số khu vực có tốc độ đô thị hoá cao, đóng góp cho tăng trưởng lớn như Hải
Phòng, Quảng Ninh; Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi; Khánh Hoà, Ninh Thuận; An
Giang, Kiên Giang.
Hạ tầng kỹ
thuật và hạ tầng xã hội trong đô thị từng bước được hoàn thiện theo hướng hiện
đại hoá. Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đạt được nhiều kết quả.
Chương
trình xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả quan trọng. Hạ tầng kinh tế - xã
hội cải thiện rõ rệt, diện mạo mới cho nông thôn có nhiều khởi sắc; các thiết
chế văn hoá được củng cố, phát huy hiệu quả; qua đó thúc đẩy phát triển sản
xuất, kết nối thị trường và nâng cao đời sống người dân. Chương trình xây dựng nông thôn mới đã hoàn thành
trước thời hạn gần 2 năm so với mục tiêu Chiến lược đề ra; đến hết năm
2019 cả nước có 54% số xã và 111 huyện đạt chuẩn nông thôn mới. Giao thông nông
thôn được đầu tư nâng cấp, mở rộng, tăng từ
278 nghìn km năm 2010 lên khoảng 580 nghìn km năm 2020; xây dựng trên 16 nghìn công trình cấp nước sinh
hoạt tập trung; 99,7% số xã đã có trường tiểu học và mẫu giáo; 99,5% số
xã có trạm y tế; 58,6% số xã có nhà văn hoá.
5. Về văn hoá - xã hội
Phát triển văn hoá,
xây dựng con người Việt Nam đạt kết quả tích cực. Nhận thức về giá trị di sản văn hoá và truyền thống văn hoá ngày càng
được nâng cao. Đời sống văn hoá của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị
văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc được đề cao và phát huy. Sản phẩm văn
hoá, văn học nghệ thuật ngày càng đa dạng và có chất lượng. Xã hội hoá các hoạt
động văn hoá được mở rộng. Nhiều di sản văn hoá vật thể, phi vật thể, di sản
thiên nhiên và di sản ký ức thế giới được công nhận, bảo tồn, tôn tạo và phát
huy giá trị. Hoạt động giao lưu, quảng bá giá trị văn hoá Việt Nam
được thực hiện chủ động và tích cực.
Công tác thông tin, truyền thông được
chú trọng hơn, thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Thực hiện quy
hoạch báo chí, vừa tăng cường quản lý, vừa phát huy vai trò báo chí cách mạng;
phát triển mạnh báo chí đa phương tiện. Công tác xuất bản, in, phát hành
đáp ứng tốt hơn nhu cầu xã hội.
Phong trào thể dục, thể thao quần chúng ngày càng được mở
rộng. Thể thao thành tích cao đã đạt được nhiều kết quả trên các đấu trường khu
vực, quốc tế, đặc biệt là các môn thể thao Olympic.
Tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm nhanh, từ 14,2% năm 2010
xuống còn 7% năm 2015 (theo chuẩn nghèo giai
đoạn 2011 - 2015) và giảm từ 9,2% năm 2016 xuống dưới 3% vào năm 2020
(theo chuẩn nghèo đa chiều). Cơ sở hạ tầng thiết
yếu ở các huyện nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tăng
cường. Đời sống người dân không ngừng được cải thiện; tạo sinh kế và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ
bản. Thu nhập bình quân đầu người tăng
3,1 lần, từ 16,6 triệu đồng năm 2010 lên 51,5 triệu đồng năm 2019.
Thực hiện nhiều giải pháp tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động.
Tỉ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi khu vực thành thị có xu
hướng giảm dần, từ mức 4,3% năm 2010 xuống còn khoảng 3,1% năm 2019, riêng năm
2020 do tác động của dịch bệnh Covid-19 nhiều doanh nghiệp phải giãn, dừng,
chấm dứt hoạt động, tỉ lệ lao động mất việc làm, thất nghiệp gia tăng. Quan hệ
lao động ngày càng hài hoà, tiến bộ; số vụ tranh chấp lao động tập thể, đình
công giảm dần qua các năm.
Thực hiện tốt các chính sách người có công, bảo đảm an
sinh xã hội. Phát huy truyền thống uống nước nhớ nguồn, huy động toàn xã hội
tham gia chăm sóc gia đình chính sách, người có công. Đến nay, cả nước đã xác
nhận được trên 9,2 triệu người có công, trong đó, số người đang hưởng chế độ ưu
đãi hằng tháng gần 1,4 triệu người; trên 500 nghìn thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp hằng tháng. Diện bao
phủ bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng, số người tham gia tăng từ
9,5 triệu người năm 2010 lên 14,7 triệu người năm 2018 (chiếm 30,4% lực lượng
lao động trong độ tuổi). Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp tăng nhanh. Thực hiện hiệu quả các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm thất nghiệp, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động; mở rộng và thực hiện tốt
các chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên và
đột xuất. Nhà nước đã dành nhiều nguồn lực đối phó với đại dịch Covid-19;
thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn; giảm, giãn thuế, phí, lệ phí; giảm giá điện, nước, dịch vụ viễn thông; khoanh nợ, giãn nợ, giảm lãi suất
tín dụng…
Đẩy mạnh hỗ trợ nhà ở cho người có công, người nghèo ở nông thôn và các vùng thường
xuyên bị thiên tai, bão lũ; phát triển nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp tại đô
thị và công nhân khu công nghiệp. Diện
tích bình quân nhà ở tăng từ 17,9 m2/người năm 2010 lên khoảng 25 m2/người
năm 2020.
Bình đẳng giới được thực hiện có hiệu quả trên các lĩnh
vực từ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội; đặc biệt, đã thu hẹp khoảng cách
giới trong việc làm, tiền lương. Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được quan tâm
cả về tổ chức bộ máy, chính sách, pháp luật, nguồn lực và được triển khai thực
hiện ở cả ba cấp độ: Phòng ngừa, can thiệp giảm thiểu các nguy cơ và hỗ trợ
phục hồi, hoà nhập cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Đã hoàn thành mục tiêu phổ
cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi. Việc xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh
phúc được quan tâm; nhiều mô hình phòng, chống bạo lực gia đình được nhân rộng.
Trong phòng, chống dịch bệnh Covid-19, đã nổi lên những giá trị đạo đức xã hội,
nhiều gương người tốt, việc tốt được nhân rộng, phát huy.
Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng
cao sức khoẻ nhân dân được quan tâm. Y tế dự phòng được tăng cường, cơ bản
không để dịch bệnh lớn xảy ra. Việt Nam từng bước kiểm soát được dịch bệnh
Covid-19, không để lây lan trên diện rộng, được ghi nhận, đánh giá cao. Mạng
lưới cơ sở y tế phát triển rộng khắp, năng lực, chất lượng khám, chữa bệnh và y
đức được nâng lên; y tế cơ sở được chú trọng. Nhiều bệnh viện công lập được
thực hiện tự chủ. Công nghiệp dược phát triển nhanh, năng lực sản xuất thuốc
trong nước có nhiều tiến bộ. Thuốc sản xuất trong nước chiếm 74% mặt hàng, đáp
ứng được trên 50% về lượng và 40% về giá trị; đã sản xuất được nhiều loại thuốc
đòi hỏi công nghệ cao, yêu cầu kỹ thuật ngặt nghèo; đã sản xuất được 11/12 loại
vắc-xin sử dụng trong Chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia. Ứng dụng rộng
rãi công nghệ thông tin trong khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ nhân dân,
đặc biệt là triển khai nền tảng hỗ trợ tư vấn khám, chữa bệnh trực tuyến, từ xa.
Nhiều dịch vụ y tế kỹ thuật cao, tiên tiến được áp dụng. Tình trạng quá tải
bệnh viện, nhất là tuyến Trung ương và tuyến cuối từng bước được khắc phục.
Tuổi thọ trung bình tăng từ 72,9 tuổi
năm 2010 lên 73,7 tuổi vào năm 2020, trong đó nam giới 71,2 tuổi, nữ giới 76,5
tuổi. Số bác sĩ trên 1 vạn dân tăng từ
7,2 bác sĩ năm 2010 lên khoảng 9 bác sĩ năm 2020. Số giường bệnh trên 1 vạn
dân tăng từ 21,9 giường năm 2010 lên 28 giường năm 2020, vượt mục tiêu đặt ra
(26 giường). Thay đổi căn bản về bảo hiểm y tế, hướng tới bảo hiểm y tế toàn
dân; tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng nhanh từ 60,9% dân số năm 2010 lên 90,7% vào năm 2020. Mức sinh
thay thế được duy trì, chất lượng dân số được cải thiện. Tình trạng suy dinh
dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em giảm mạnh.
Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội được tăng cường; đã
hình thành hệ thống cơ quan chuyên trách phòng, chống tệ nạn xã hội ở địa
phương.
Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam liên tục
được cải thiện, thuộc
nhóm các nước có mức phát triển con người trung bình cao của thế giới. Đã hoàn
thành trước thời hạn nhiều mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, được đánh giá là
điểm sáng trong lĩnh vực giảm nghèo, y tế, giáo dục và tích cực triển khai thực
hiện các Mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030.
6. Về quản lý tài nguyên, bảo vệ và cải thiện chất lượng
môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai
Công tác quản
lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu ngày càng được
chú trọng hơn. Hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên, môi trường
tiếp tục được hoàn thiện; đánh giá tác động môi trường được quan tâm hơn; hệ
thống cơ sở dữ liệu từng bước được xây dựng, đáp ứng yêu cầu theo dõi, giám
sát, đánh giá trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí
hậu. Vấn đề tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được tích
hợp, lồng ghép vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Các nguồn lực
tài nguyên từng bước được quản lý chặt chẽ, khai thác và sử dụng có hiệu quả
hơn, nhất là đất đai, khoáng sản; phát hiện và xử lý nhiều vụ việc vi phạm,
lãng phí, tham nhũng.
Công tác
phòng ngừa, kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, ngăn ngừa suy thoái, cải thiện chất
lượng môi trường đã đạt được một số kết quả tích cực. Đã thực hiện một số giải
pháp bảo vệ môi trường trong sản xuất kinh doanh, thực hiện dự án đầu tư và thu
hút đầu tư nước ngoài. Công tác bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, bảo vệ
và phát triển rừng được quan tâm. Phát hiện và xử lý nhiều vụ việc, cơ sở gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Năng lực và
chất lượng dự báo thời tiết, cảnh báo thiên tai được nâng lên; nhiều giải pháp
ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, tránh thiên tai được triển khai tích cực
và đạt nhiều kết quả.
Đến năm 2020,
90% dân cư thành thị được sử dụng nước sạch và 90,2% dân số nông thôn được sử
dụng nước sạch và hợp vệ sinh. Tỉ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt
động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường là 90%,
trong đó có 53% đã lắp đặt thiết bị quan trắc
nước thải tự động. Tỉ lệ chất thải rắn được thu gom và xử lý đạt 85,5%.
7. Về quản lý nhà nước, cải cách hành chính, phòng, chống
tham nhũng, lãng phí
Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên. Vai
trò của Nhà nước và nội dung, phương thức quản lý nhà nước đã từng bước điều chỉnh
phù hợp hơn với yêu cầu phát triển đất nước và thông lệ quốc tế. Cải cách hành
chính của bộ máy nhà nước, các bộ, ngành, địa phương đã được đẩy mạnh; tổ chức bộ máy nhà nước được kiện toàn, tinh giản biên
chế được đẩy mạnh và đạt kết quả bước đầu. Thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình, đối thoại, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo… Tiếp tục hoàn thiện
phương thức hoạt động và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Kỷ luật,
kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước được tăng cường; đề cao trách
nhiệm của người đứng đầu; tinh thần và thái độ làm việc của cán bộ, công
chức theo hướng phục vụ người dân, doanh
nghiệp đã được nâng lên. Chế tài xử lý vi phạm được hoàn thiện hơn.
Cải cách thủ tục hành chính đạt những kết quả tích cực. Các cấp, các ngành tập trung cải cách thủ tục
hành chính, bảo đảm thống nhất, đồng bộ, đơn giản, minh bạch, phù hợp với thông
lệ quốc tế. Nhiều thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, danh mục sản phẩm
hàng hoá kiểm tra chuyên ngành đã được cắt giảm, đơn giản hoá. Quy định về thủ
tục hành chính được kiểm soát chặt chẽ ngay từ khi xây dựng, ban hành văn bản
quy phạm pháp luật. Tích cực xây dựng Chính phủ, chính quyền điện tử, cung cấp
dịch vụ công trực tuyến được đẩy nhanh, tăng cường họp, làm việc trực tuyến,
xử lý hồ sơ công việc trên môi trường điện tử; cơ chế một cửa, một cửa liên
thông, một cửa quốc gia, một cửa ASEAN tiếp tục được duy trì, mở rộng, cải thiện
về chất lượng, hiệu quả hoạt động.
Công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo, phòng, chống tham nhũng, lãng phí được đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, phát hiện và chấn chỉnh,
xử lý nhiều vụ việc vi phạm, thu hồi số lượng lớn tiền và tài sản về cho Nhà
nước. Công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo được quan tâm hơn,
xử lý kịp thời nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài, vượt cấp và hạn chế phát sinh
mới. Đã tập trung chỉ đạo xử lý nghiêm và công khai kết quả xử lý nhiều vụ việc
tham nhũng, góp phần củng cố niềm tin trong nhân dân.
8. Về kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng,
an ninh và đối ngoại, hội nhập quốc tế
Bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi
mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự,
an toàn xã hội và nền văn hoá, góp phần giữ vững ổn định chính trị, tạo môi
trường hoà bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước. Chủ động ngăn ngừa
các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa và triệt tiêu các yếu tố bất
lợi, nhất là các yếu tố có thể gây ra đột biến.
Nền quốc
phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, thế trận an
ninh nhân dân và khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố được củng cố ngày càng vững
chắc; sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang được củng cố và nâng cao. Đã tập
trung xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại; một số quân chủng, binh chủng, lực lượng có mặt tiến
nhanh lên hiện đại đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, đóng góp vào hoạt động duy trì hoà bình ở khu vực và trên thế giới;
là lực lượng nòng cốt, xung kích trong công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh
quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, phòng, chống thiên tai, thảm hoạ,
tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ; giúp đỡ nhân dân xoá đói, giảm nghèo, xây dựng đời
sống văn hoá và nông thôn mới, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,
vùng đặc biệt khó khăn. Bước đầu hình thành hệ thống pháp luật, các chiến lược, đề án về quốc phòng, an ninh và cơ sở vật chất cho việc bảo đảm an ninh mạng, an toàn
thông tin quốc gia, không gian mạng quốc gia.
Việc kết hợp
phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh ngày càng chặt chẽ; thực
hiện có hiệu quả các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng, ngành,
lĩnh vực kinh tế trọng điểm, tạo tiềm lực, cơ sở vật chất, góp phần tăng cường
quốc phòng, an ninh. Phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền
biển, đảo; triển khai xây dựng, phát huy tốt vai trò nòng cốt của các khu
kinh tế - quốc phòng, tham gia phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn chiến
lược, biên giới, biển, đảo, kết hợp với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh,
đối ngoại. Công nghiệp quốc phòng, an ninh từng bước phát triển theo hướng hiện
đại, lưỡng dụng, đáp ứng một phần nhu cầu vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực
lượng vũ trang và góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Đối ngoại và
hội nhập quốc tế đã được triển khai chủ động, tích cực, toàn diện, đồng bộ và
đạt kết quả quan trọng trên nhiều mặt; cùng với quốc phòng, an ninh gìn giữ môi
trường hoà bình, ổn định, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế; là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã
hội và gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, góp phần bảo vệ đất nước từ sớm, từ
xa. Xây dựng và quản lý biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển với
các nước láng giềng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết các tranh chấp
biên giới lãnh thổ bằng biện pháp hoà bình, trên cơ sở tiến trình ngoại giao và
luật pháp quốc tế, thúc đẩy thực hiện đầy đủ Tuyên bố của các bên trên Biển
Đông.
Tư duy và chiến
lược về đối ngoại và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới, đi vào thực chất
hơn, triển khai đồng bộ đối ngoại song phương và đa phương. Đối ngoại đa phương
có bước chuyển biến quan trọng. Quan hệ với các đối tác tiếp tục được mở rộng,
đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả hơn; quan hệ với một số quốc gia được
nâng cấp thành đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, tin cậy chính trị, đan
xen lợi ích với các đối tác chủ chốt được tăng cường.
Hội nhập quốc
tế được đẩy mạnh toàn diện, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm,
đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường sức mạnh tổng
hợp quốc gia; ký kết và triển khai nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới,
góp phần quan trọng mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá thị trường, thu hút
nhiều nguồn lực cho phát triển, thúc đẩy nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu
rộng với kinh tế khu vực và thế giới. Ngoại giao kinh tế phối hợp chặt chẽ với
ngoại giao chính trị, ngoại giao văn hoá. Năng lực giải quyết các tranh chấp
quốc tế về thương mại và đầu tư được nâng lên. Tích cực tham gia các cơ chế,
thiết chế của Liên hợp quốc về hoạt động gìn giữ hoà bình, huấn luyện, diễn tập chung về hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ
thảm hoạ, tìm kiếm cứu nạn; hợp tác quốc tế khắc phục hậu quả chiến tranh.
Công tác bảo
hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài được quan tâm hơn, nhất là
trong thời gian dịch bệnh Covid-19; thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp bảo vệ
tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam ở
nước ngoài. Thực hiện có hiệu quả chính sách thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc,
đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
II- HẠN CHẾ, YẾU KÉM
1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu đề ra; GDP tăng bình quân
khoảng 5,9%/năm giai đoạn 2011 - 2020 so với mục tiêu Chiến lược là 7 - 8%/năm và thấp hơn so với hai
giai đoạn trước. GDP bình quân đầu người năm 2020 tăng thêm khoảng 1.420 USD so với năm 2010, thấp hơn nhiều nước trong khu vực. Quy mô nền kinh tế của nước ta đứng thứ sáu, trong khi quy mô
dân số xếp thứ ba trong các nước ASEAN. Nền tảng vĩ mô, khả năng chống chịu của nền kinh tế chưa thật vững chắc,
năng lực cạnh tranh và tính tự chủ của nền
kinh tế còn hạn chế, cán cân thương mại phụ thuộc nhiều vào khu vực đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
Tỉ lệ tích luỹ tài sản giai đoạn 2011 - 2020
đạt 27% GDP, thấp hơn các nước trong khu vực.
2. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với
đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Phương thức
tăng trưởng thay đổi chưa rõ rệt, vẫn còn dựa vào gia tăng số lượng vốn đầu tư,
lao động và các nguồn lực đầu vào khác; chất lượng tăng trưởng có mặt chậm được
cải thiện, chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế phát triển. Công nghiệp hỗ trợ
phát triển chậm, nguyên vật liệu, linh kiện phục vụ sản xuất trong nước còn phụ
thuộc lớn vào bên ngoài; chưa quan tâm đúng mức đến chuỗi giá trị và cung ứng
trong nước.
Cơ cấu lại đầu
tư, trọng tâm là đầu tư công, chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng lãng phí, chất lượng công trình thấp
chưa được giải quyết triệt để. Chất lượng thể chế quản lý đầu tư công còn thấp so
với mức trung bình của các nước ASEAN-4, nhất là về công tác thẩm định, lựa chọn dự án và
giám sát thực hiện đầu tư. Công tác quản lý tài
chính, tài sản công, đất đai ở một số cơ quan, đơn vị còn kém hiệu quả.
Cổ phần hoá, thoái vốn tại doanh nghiệp nhà nước còn chậm,
chỉ mới tập trung vào việc sắp xếp, thu gọn số lượng doanh nghiệp, hiệu quả
quản trị doanh nghiệp chưa đạt yêu cầu; thiếu chiến lược phát triển doanh
nghiệp; hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp còn thấp, chưa tương xứng với vị thế, nguồn lực
đang nắm giữ. Số lượng doanh nghiệp tư nhân còn ít, quy mô chủ yếu là doanh
nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, trình độ quản trị và công nghệ lạc hậu; khả năng cạnh
tranh và hiệu quả hoạt động thấp; mức độ sẵn sàng cho hội nhập và liên kết với
khu vực đầu tư nước ngoài còn hạn chế. Đội ngũ
doanh nhân phát triển chưa tương xứng với yêu cầu phát triển. Tổ chức kinh tế
tập thể, hợp tác xã phần lớn có quy mô nhỏ, năng lực nội tại còn yếu.
Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng còn đối mặt với nhiều
khó khăn, thách thức. Quy mô và năng lực tài chính của
hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam nhỏ so với khu vực; năng lực cạnh tranh và mức độ lành
mạnh tài chính của một số tổ chức tín dụng còn hạn chế. Mức độ an toàn của hệ thống các tổ
chức tín dụng chưa bền vững so với các
nước trong khu vực[62]; dễ bị tổn thương trước tác
động bất lợi, đột ngột từ bên ngoài. Việc
thực hiện cơ cấu lại các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước gặp khó
khăn về bổ sung vốn điều lệ. Năng lực quản trị điều hành, quản trị rủi ro
của các tổ chức tín dụng còn hạn chế; xử lý nợ xấu còn một số khó khăn, vướng
mắc; tiến độ cơ cấu lại một số tổ chức tín dụng phi
ngân hàng có cổ đông lớn là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước còn chậm[63].
Công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn chủ yếu đang hoạt động
ở phân khúc thấp trong chuỗi giá trị, tỉ lệ nhập khẩu nguyên, nhiên liệu còn
lớn, trình độ công nghệ sản xuất nhìn chung vẫn thấp so với thế giới; chưa hình thành được mô hình các cụm ngành
chuyên môn hoá, công nghiệp hỗ trợ, tỉ lệ nội địa hoá còn ở mức thấp.
Cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông
thôn gắn với xây dựng nông thôn mới ở một số địa phương chuyển biến chưa rõ nét
và thiếu bền vững. Đổi mới tổ chức sản xuất còn chậm, việc sắp xếp đổi mới công
ty nông, lâm nghiệp hiệu quả thấp. Sản xuất nông nghiệp vẫn còn manh mún, tập
trung, tích tụ ruộng đất còn khó khăn; kinh tế hộ nhỏ lẻ là chủ yếu. Thị
trường tiêu thụ nông sản thiếu ổn định, chất lượng và khả năng cạnh tranh một
số mặt hàng còn thấp.
Tốc độ tăng trưởng của khu vực
dịch vụ chưa tương xứng tiềm năng, lợi thế. Phát triển du lịch còn một số hạn chế, chưa bảo đảm tính bền vững; chất
lượng dịch vụ du lịch chưa đáp ứng yêu cầu. Hệ thống phân phối còn bất cập, chưa kết nối hiệu
quả, thông suốt từ khâu sản xuất đến tiêu thụ, chi phí logistics cao hơn mức bình quân thế giới.
3. Khoa học, công
nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực để nâng cao năng suất
lao động, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Trình độ khoa học, công nghệ quốc gia nhìn chung còn
khoảng cách so với nhóm đầu khu vực. Hiệu quả nghiên cứu khoa học, công nghệ và
ứng dụng kết quả nghiên cứu chưa cao. Năng lực nghiên cứu ứng dụng của các viện
nghiên cứu, trường đại học còn khiêm tốn. Việc chuyển giao các kết quả nghiên
cứu khoa học, đặc biệt là các kết quả phát triển công nghệ từ nguồn vốn hỗ trợ
của Nhà nước cho doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn. Năng
lực hấp thụ công nghệ, đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp
trong nước còn nhiều hạn chế. Doanh nghiệp chưa thực sự là trung tâm, đóng
vai trò quyết định cho đổi mới sáng tạo. Nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực sản
xuất vẫn đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới. Mối
liên kết giữa nghiên cứu với đào tạo, giữa nghiên cứu với thị trường và doanh
nghiệp còn yếu.
Thiếu cơ chế, chính sách phù hợp hỗ trợ thúc đẩy khởi
nghiệp sáng tạo và doanh nghiệp thực hiện đổi mới, ứng dụng công nghệ, đặc biệt
là các công nghệ tiên tiến, thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Chưa khuyến khích, nuôi dưỡng và phát triển được nhiều các phát minh, sáng chế
trở thành sản phẩm cuối cùng và thương mại hoá. Đầu tư cho khoa học, công nghệ
hiệu quả chưa cao. Việc xã hội hoá các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ
công lập còn chậm.
Đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ tuy có tăng
về số lượng nhưng thiếu các nhà khoa học đầu ngành, chưa đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; cơ chế đãi ngộ còn bất cập. Cơ sở vật chất kỹ thuật và trang
thiết bị cho hoạt động khoa học, công nghệ còn thiếu và chưa đồng bộ.
4. Thực hiện các đột
phá chiến lược còn chậm; việc tạo nền tảng để đến
năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa
đạt mục tiêu đề ra
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa đồng
bộ, đầy đủ để bảo đảm thị trường vận hành thông suốt, hiệu quả, chưa thực sự
đáp ứng yêu cầu thúc đẩy nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập. Thị trường
chưa là cơ sở, căn cứ để huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển trong một
số lĩnh vực. Nhiều quy định pháp luật, cơ chế, chính sách còn chồng chéo, thiếu
chặt chẽ, chưa ổn định. Thực thi pháp luật chưa hiệu quả, chấp hành
pháp luật có nơi chưa nghiêm, việc giám sát chưa chặt chẽ, chi phí tuân thủ
pháp luật còn cao. Thiết chế pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
doanh nghiệp trong kinh doanh yếu, tăng rủi ro cho doanh nghiệp. Pháp luật về sở hữu và
quyền tài sản, bảo đảm quyền tự do kinh doanh còn hạn chế; hiệu quả giải quyết
tranh chấp, xử lý vi phạm chưa cao. Một số thị trường chậm phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, nhất
là thị trường quyền sử dụng đất và thị trường khoa học, công nghệ.
Công tác cải cách hành chính
trong một số lĩnh vực vẫn chưa thực chất; hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành
chính và phân cấp, phân quyền cải thiện còn chậm; còn tình trạng đùn đẩy công
việc, trách nhiệm… Thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh trên một số lĩnh vực
còn chồng chéo, rườm rà, phức tạp. Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự
thông thoáng, an toàn, lành mạnh. Kết quả cải cách hành chính chưa đồng đều giữa các bộ,
ngành, địa phương.
Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu
cầu phát triển. Hiệu quả giáo dục và đào tạo còn hạn chế, nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa quan tâm
đúng mức các kỹ năng xã hội, kỹ năng sống, kỹ năng sáng tạo, khả năng tự học… Cơ cấu đào tạo chưa thực sự gắn với
nhu cầu của thị trường và chưa đáp ứng kịp thời cho Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư. Nguồn nhân lực chất lượng cao tăng chậm, chưa thực sự đáp ứng được yêu
cầu của người sử dụng lao động; thiếu nhân lực chất lượng cao ở nhiều lĩnh vực,
ngành nghề. Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý
giáo dục có nơi còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Chưa gắn kết
chặt chẽ, toàn diện giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển, ứng dụng
khoa học, công nghệ.
Hệ thống kết cấu hạ tầng còn hạn chế, chưa theo kịp yêu
cầu phát triển, chất lượng chưa cao, chưa bảo đảm tính đồng bộ, ảnh hưởng đến
hiệu quả khai thác, vận hành. Kết cấu hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, tính kết
nối giữa các loại hình vận tải chưa cao. Đầu tư mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực đường bộ, chưa quan tâm đúng mức
đến đường sắt, đường thuỷ. Đến năm 2020 có khoảng 1.400 km đường cao
tốc, chưa đạt mục tiêu đề ra. Hạ tầng năng lượng còn thiếu tính đồng bộ, kết
nối và truyền tải điện tại một số khu vực chưa đáp ứng yêu cầu, chưa có cơ chế
để tư nhân tham gia đầu tư phát triển truyền tải điện; một số dự án điện quan
trọng chậm tiến độ, việc phát triển năng lượng tái tạo và năng lượng thay thế
còn bất cập. Việc đầu tư các công trình hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu
còn chậm. Hạ tầng công nghệ thông tin ở một số địa phương chưa đồng bộ, nhất là
vùng sâu, vùng xa. Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia cho phát triển
chính phủ điện tử triển khai chậm và bảo đảm an toàn an ninh thông tin chưa
cao. Hạ tầng đô thị kém chất lượng, thiếu đồng bộ, chưa theo kịp sự gia tăng
dân số và sự phát triển của đô thị. Hạ tầng cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản
ở cả thành thị và nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, miền núi, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số còn thiếu và chất lượng chưa cao. Hạ tầng văn hoá, xã hội
phát triển chưa đồng bộ; chất lượng, hiệu quả chưa cao.
Về tạo nền tảng đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại: Nhiều tiêu chí để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại dự kiến không đạt, như GDP bình quân đầu
người, giá trị gia tăng công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân đầu người, tỉ
trọng nông nghiệp trong GDP, tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động
xã hội, tỉ lệ đô thị hoá, chỉ số phát triển con người, chỉ số bất bình đẳng thu
nhập, tỉ lệ lao động qua đào tạo, tỉ lệ dân số sử dụng nước sạch...
5. Về phát triển vùng, kinh tế biển,
đô thị, xây dựng nông thôn mới
Chênh lệch phát triển và thu nhập giữa các vùng chậm được thu hẹp. Tác động lan toả và liên
kết của các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng khác chưa rõ nét. Một số khu
kinh tế ven biển, khu kinh tế cửa khẩu phát triển chưa đạt mục tiêu đề ra.
Thiếu cơ chế, chính sách phù hợp để phát triển kinh
tế vùng và điều phối liên kết vùng hiệu quả; không gian phát triển bị chia cắt,
đầu tư còn chồng chéo, trùng lặp; chưa khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của từng vùng, địa
phương. Việc giải quyết những vấn đề có tính liên vùng như ô nhiễm môi trường, kết cấu hạ tầng… còn khó khăn, vướng
mắc.
Phát triển
kinh tế biển chưa gắn kết hài hoà với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
Một số chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế biển chưa đạt mục tiêu đề ra.
Nhiều ngành kinh tế biển phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và
yêu cầu phát triển của đất nước. Chưa xây dựng được thương cảng quốc tế và tập
đoàn kinh tế mạnh tầm cỡ khu vực. Kết nối phát triển kinh tế biển với vùng ven
biển và nội địa còn thiếu chặt chẽ, kém hiệu quả. Một số tài nguyên biển bị
khai thác quá mức; các hệ sinh thái biển, đa dạng sinh học biển bị suy giảm.
Công tác bảo đảm an ninh, an toàn trên biển còn nhiều khó khăn, thách thức; ứng
phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, biển xâm thực chưa đáp ứng yêu cầu.
Việc tổ chức quản lý, điều phối phát triển kinh tế biển chưa thực sự tập trung,
hiệu quả.
Chất lượng
phát triển đô thị chưa cao; hệ thống kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, nhất là
giao thông, thoát nước, xử lý nước thải, rác thải, hạ tầng xã hội; năng lực,
trình độ quản lý thấp, chậm đổi mới; còn tình trạng ùn tắc giao thông, úng
ngập, ô nhiễm môi trường, nhiều nơi thiếu, quá tải dịch vụ xã hội... Quỹ đất
dành cho giao thông tĩnh còn ít, thiếu công viên, cây xanh, các điểm vui chơi,
giải trí... Đô thị hoá đất đai nhanh hơn đô thị hoá dân số; sử dụng đất đô thị
chưa hiệu quả. Mật độ đô thị thấp, manh mún, đặc biệt là vùng ven Thủ đô Hà Nội
và Thành phố Hồ Chí Minh. Thiếu kết cấu hạ tầng giao thông kết nối đô thị và
nông thôn, giữa trung tâm và các khu vực mở rộng ven đô. Kết nối giữa các đô
thị với chuỗi cung ứng hàng hoá, dịch vụ, logistics còn yếu; người nhập cư khó
tiếp cận các dịch vụ cơ bản và các cơ hội việc làm ở đô thị... làm giảm hiệu
quả kinh tế của đô thị, sức cạnh tranh khu vực và quốc tế của các đô thị lớn
chưa cao.
Quản lý phát
triển đô thị còn nhiều bất cập, chất lượng quy hoạch đô thị thấp, thiếu bản
sắc, kiến trúc riêng, thực hiện quy hoạch chưa nghiêm; chưa chú trọng tổ chức
dịch vụ công, dịch vụ xã hội cơ bản tại một số khu vực đô thị mới phát triển.
Việc định giá đất chưa theo cơ chế thị trường, chưa sát với thực tiễn, chưa
minh bạch trong đánh giá giá trị đất đai, bất động sản và chuyển mục đích,
quyền sử dụng đất; thất thoát nguồn lực từ đất đô thị còn lớn. Chính sách nhà ở đô thị chưa đồng bộ, phù hợp; phát
triển nhà ở xã hội chưa đạt mục tiêu đề ra.
Kết quả xây dựng nông thôn mới ở một số địa
phương chưa thực sự bền vững, nhất là về sinh kế và nâng cao thu nhập người
dân; nhiều nơi mới chú trọng đến hạ tầng, ít quan tâm đến sản xuất, kinh doanh.
Sự gắn kết giữa xây dựng nông thôn mới và cơ cấu lại nông nghiệp chưa chặt chẽ.
Kết quả thực hiện tiêu chí về tổ chức sản xuất ở nông thôn chưa cao. Ô nhiễm
môi trường ở một số khu vực nông thôn còn trầm trọng, chậm được giải quyết,
nhất là xử lý chất thải. Bản sắc văn hoá truyền thống nông thôn trên một số địa
bàn bị mai một.
6. Việc thực hiện
các mục tiêu phát triển văn hoá, xã hội và con người còn một số hạn chế. Việc quan tâm phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội chưa tương xứng với phát triển kinh tế, chưa đủ mức tác động
hiệu quả trong việc xây dựng con người mới, xây dựng môi trường văn hoá lành
mạnh. Đời sống văn hoá tinh thần ở một số nơi còn nghèo nàn, đơn điệu. Mức
hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, miền còn khoảng cách lớn. Môi trường văn hoá
có nơi còn diễn biến phức tạp, xuất hiện những biểu hiện tiêu cực, xuống cấp về
đạo đức, lối sống.
Tầm vóc và thể lực của người Việt Nam chậm được cải
thiện; tỉ số giới tính khi sinh tăng nhanh và còn ở mức cao. Công tác bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân có mặt chưa đáp ứng yêu cầu. Chất lượng
dịch vụ y tế, nhất là ở tuyến dưới còn thấp. Y đức của một bộ phận cán bộ y tế
chưa tốt. Việc khắc phục tình trạng quá tải ở một số bệnh viện tuyến trên còn chậm.
Công tác y tế dự phòng, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm còn chưa theo kịp yêu
cầu xã hội.
Hệ thống chính sách an sinh xã hội còn một số bất cập. Tỉ
lệ lao động khu vực phi chính thức và việc
làm dễ bị tổn thương còn cao, nhất là năm 2020 do ảnh hưởng của dịch
bệnh Covid-19. Một bộ phận thanh niên, sinh viên sau tốt nghiệp khó
tìm được việc làm. Chính sách tiền lương còn những hạn chế, bất cập. Các thiết
chế, cơ chế hỗ trợ phát triển thị trường lao động, quan hệ lao động hiệu quả
còn thấp.
Kết quả giảm nghèo đa chiều chưa bền vững, còn bất cập,
nguy cơ tái nghèo còn cao. Khả năng tiếp cận
các dịch vụ tài chính còn thấp, nhất là đối với người dân nông thôn,
vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số. Khoảng cách phát triển giữa các
vùng, miền còn lớn, bất bình đẳng thu nhập dân cư có xu hướng gia tăng; tình
trạng di cư tự phát chưa được giải quyết hiệu quả, thấu đáo. Tỉ lệ hộ nghèo và
cận nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. Tệ nạn xã hội nhiều nơi diễn biến phức tạp. Bình đẳng
giới, bảo vệ phụ nữ và trẻ em có nơi chưa được quan tâm đúng mức; còn xảy ra
nhiều vụ bạo lực gia đình, bạo hành, xâm hại trẻ em gây bức xúc xã hội. Đời
sống của người yếu thế còn nhiều khó khăn.
Quản lý nhà nước về văn hoá, nghệ
thuật, tôn giáo, tín ngưỡng và thông tin, truyền thông có mặt còn hạn chế. Công
tác thông tin, truyền thông trong nhiều trường hợp chưa chủ động. Một số cơ
quan báo chí buông lỏng quản lý; còn xảy ra vi phạm pháp luật và đạo đức nghề
nghiệp người làm báo, đưa tin xấu, độc, sai sự thật, ảnh hưởng đến quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
7. Quản lý tài
nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu còn một số hạn chế. Hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách còn một số nội
dung chồng chéo, mâu thuẫn; công tác quản lý còn bị động, thiếu tính chiến
lược, liên ngành, liên vùng. Năng lực và nguồn lực về quản lý tài nguyên, bảo
vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai còn hạn
chế.
Khai thác tài nguyên thiếu bền vững, hiệu quả quản lý,
sử dụng chưa cao, chưa thực sự theo nguyên tắc thị trường, nhất là đất đai, dẫn
đến nhiều vụ tranh chấp, khiếu kiện về đất đai xảy ra tại một số địa phương. An
ninh nguồn nước chưa được quan tâm đúng mức, tình trạng phá rừng, khai
thác cát, đá, sỏi trái phép ở một số nơi ngăn chặn chưa hiệu quả. Tình
trạng sạt lở bờ sông, bờ biển còn diễn biến phức tạp, khắc phục còn
chậm. Xu hướng suy giảm nguồn lợi thuỷ sản chưa được khắc phục.
Chất lượng môi trường ở nhiều nơi xuống cấp, nhất là tại
các đô thị lớn, nơi tập trung nhiều khu công nghiệp, các làng nghề, lưu vực một
số dòng sông; có nơi đến mức báo động; ô nhiễm không khí ở nhiều thành phố lớn
gia tăng. Việc xử lý một số cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng còn chậm.
Đa dạng sinh học nhiều nơi bị suy giảm, còn xảy ra sự cố môi trường nghiêm
trọng. Tình trạng xâm nhập mặn và phèn hoá tiếp tục diễn ra ở duyên hải miền
Trung và đồng bằng sông Cửu Long.
8. Hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn hạn chế. Bộ máy nhà nước ở một số nơi còn cồng kềnh, sắp xếp, tinh gọn tổ chức
bộ máy, tinh giản biên chế còn nhiều khó khăn, hiệu quả chưa cao; chức năng,
nhiệm vụ của một số cơ quan còn chồng chéo, chưa được phân định rõ.
Cơ chế phân cấp quản lý kinh tế có
mặt chưa thật phù hợp, nhất là về ngân sách nhà nước, đầu tư, tổ chức, biên
chế, quản lý tài nguyên, đô thị, tài sản công, doanh nghiệp nhà nước... Quản lý
xã hội còn một số hạn chế, chưa bảo đảm tính đồng bộ; chính quyền địa phương
chưa quan tâm đúng mức quản lý phát triển xã hội. Năng lực quản lý của một số
địa phương chưa đáp ứng yêu cầu; trong khi sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa
phương thiếu chặt chẽ, đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả của việc phân cấp, ảnh
hưởng đến vai trò quản lý tập trung thống nhất của Trung ương và tính năng
động, chịu trách nhiệm của địa phương. Tổ chức và hoạt động của chính quyền ở
một số địa phương chậm đổi mới; chưa có quy định phù hợp với đặc điểm vùng đô
thị và hải đảo.
Việc
sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế còn khó khăn, vướng mắc,
chưa đồng bộ. Hệ thống tổ chức các đơn vị sự nghiệp công lập còn cồng kềnh,
phân tán, chồng chéo, hiệu quả chưa cao; quản trị nội bộ nhiều cơ quan, đơn vị
yếu kém, chất lượng, hiệu quả dịch vụ thấp; việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm. Xã hội hoá lĩnh vực
dịch vụ sự nghiệp công chưa đáp ứng yêu cầu.
Dịch vụ hành chính công trong nhiều
lĩnh vực vẫn còn phiền hà; năng lực, phẩm chất, ý thức kỷ luật của một bộ phận
cán bộ, công chức, viên chức chưa đáp ứng yêu cầu; chi
phí không chính thức còn cao; còn tình trạng nhũng nhiễu, tham nhũng vặt, gây bức xúc cho người dân, doanh
nghiệp. Triển khai xây dựng chính phủ điện tử còn chậm. Hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh
tra còn chồng chéo. Giám sát, phản biện xã hội trong xây dựng và thực thi luật pháp, chính sách
hiệu quả chưa cao. Tham nhũng, lãng phí một số nơi còn nghiêm trọng.
9. Sự gắn kết giữa
phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng,
an ninh chưa thực sự chặt chẽ, hiệu quả. Nhận thức của các cấp, các ngành, các địa phương,
các tổ chức kinh tế về mục tiêu, nhiệm vụ kết hợp phát triển kinh tế - xã hội
với quốc phòng, an ninh chưa đầy đủ, sâu sắc; còn biểu hiện chủ quan, thiếu
cảnh giác, nặng về mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, nhẹ về nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh. Việc cụ thể hoá chủ trương, nghị quyết của Đảng thành các quy
định pháp luật, cơ chế, chính sách để triển khai thực hiện mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh còn chậm, chưa toàn diện,
có lĩnh vực còn bất cập, chưa đủ mạnh.
Tình hình an ninh, trật tự trên một số lĩnh vực, địa bàn
chưa thật vững chắc; xử lý tình hình phức tạp nảy sinh ở một số địa bàn cơ sở
có lúc, có nơi ở giai đoạn đầu còn bị động, lúng túng. Tình hình tội phạm, nhất
là tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội
phạm ma tuý có vũ trang diễn biến phức tạp; tệ nạn xã hội ở một số địa bàn chưa
được kiểm soát, quản lý chặt chẽ. Còn xảy ra nhiều vụ tai nạn giao thông nghiêm
trọng, một số vụ cháy lớn. Công tác bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng
còn bất cập, khó khăn.
Nội dung quốc phòng, an ninh trong các chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội chưa tương
xứng; triển khai thực hiện và kết hợp nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở một
số ngành, lĩnh vực, địa phương chưa chặt chẽ, cụ thể, hiệu quả chưa cao, đặc
biệt là tại các vùng chiến lược, biên giới, biển, đảo. Một số cơ sở sản xuất,
công trình kinh tế, dự án đầu tư chưa quan tâm đúng mức đến nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh, chưa tính đến khả năng chuyển sang nhiệm vụ quốc phòng, an ninh
khi có tình huống.
Một số công trình kết cấu hạ tầng chưa gắn kết chặt chẽ
với xây dựng các công trình phòng thủ, thiết bị chiến trường, phòng thủ dân sự.
Quy hoạch các thành phố, đô thị, khu kinh tế tập trung chưa quan tâm đúng mức
bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và xây dựng hệ thống công trình
ngầm lưỡng dụng.
Đầu tư, xây dựng khu vực phòng thủ ở một số địa phương
chưa đúng mức, chưa tương xứng với tiềm năng, tăng trưởng kinh tế. Công tác
phối hợp chỉ đạo, hướng dẫn về nhiệm vụ xây dựng, hoạt động khu vực phòng thủ
chưa thống nhất, thiếu đồng bộ và còn vướng mắc, bất cập.
Hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh có mặt chưa gắn
kết chặt chẽ với hội nhập kinh tế quốc tế.
10. Công tác đối
ngoại và hội nhập quốc tế hiệu quả chưa cao. Quan hệ đối ngoại có mặt còn hạn chế; chưa khai thác và phát huy hiệu quả
các quan hệ lợi ích đan xen, ổn định với các đối tác quan trọng.
Sự phát triển khoa học, công nghệ và
quá trình hội nhập sâu rộng của đất nước đặt ra những vấn đề mới, chưa được
nghiên cứu kỹ và xử lý hiệu quả. Công tác phân tích, đánh giá, dự báo tình hình
quốc tế và khu vực còn hạn chế.
Hội nhập quốc tế chưa được triển
khai đồng đều, hiệu quả tổng hợp chưa cao, chưa có giải pháp đồng bộ để hạn chế
các tác động tiêu cực, tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế. Mức độ hội
nhập một số lĩnh vực văn hoá, xã hội chưa cao. Công tác phối hợp giữa các bộ,
ban, ngành, giữa Trung ương với địa phương vẫn chưa thực sự chặt chẽ trong
triển khai các hoạt động đối ngoại. Năng lực hội nhập quốc tế của doanh nghiệp
tuy đã được nâng cao một bước nhưng vẫn còn bất cập, hạn chế. Việc triển khai
thực hiện các thoả thuận, cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại tự do hiệu
quả chưa cao.
Khả năng tự chủ của nền kinh tế chưa cao; năng lực hội
nhập quốc tế chậm cải thiện. Chưa tranh thủ tốt cơ hội và lợi ích của hội nhập
quốc tế cho phát triển kinh tế - xã hội.
III- NGUYÊN NHÂN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Nguyên nhân hạn chế, yếu kém
Những hạn
chế, yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó
nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
Nhận thức về
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở một số
nội dung còn chưa thực sự sâu sắc, thống nhất, nhất
là vấn đề quan hệ giữa Nhà nước và thị trường, sở hữu đất đai, phân bổ
nguồn lực, mối quan hệ giữa tăng trưởng nhanh và bền vững, vai trò của doanh
nghiệp nhà nước, kinh tế tập thể, hợp tác
xã, doanh nghiệp tư nhân... Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa chưa đầy đủ, hiện đại, hội nhập, chưa theo kịp yêu cầu phát triển.
Công tác chỉ đạo, điều hành trên một số lĩnh vực còn hạn chế, phản ứng chính
sách còn chậm, chưa tạo được động lực mạnh mẽ để thúc đẩy phát triển.
Tính thượng
tôn pháp luật chưa cao, kỷ luật, kỷ cương nhiều nơi chưa nghiêm. Một số quy
định pháp luật còn chồng chéo, nhận thức và thực thi pháp luật còn khác nhau,
khó thực hiện. Phương thức quản lý và đánh giá cán bộ còn bất cập, chưa có cơ
chế phù hợp, hiệu quả để xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm, không hoàn
thành nhiệm vụ. Công tác kiểm tra, giám sát, theo dõi, đôn đốc thực hiện trong
thực thi công vụ ở một số cơ quan, đơn vị còn chưa nghiêm, nhất là ở cấp cơ sở.
Chưa phát huy đầy đủ tiềm năng, năng lực của con người Việt Nam trong phát
triển đất nước. Trong một số trường hợp còn chưa có sự thống nhất trong nhận
thức và hành động về hệ giá trị văn hoá, con người Việt Nam và gắn kết giữa
phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường.
Phương thức lãnh
đạo quản lý kinh tế, quản lý xã hội trong thực tiễn nhiều nơi, nhiều lĩnh vực
chưa thực sự phù hợp, hiệu lực, hiệu quả chưa cao; còn có biểu hiện "tư duy nhiệm kỳ", "lợi ích nhóm".
Tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách, giải pháp trên một số lĩnh vực
chưa thực sự đồng bộ, quyết liệt. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, giữa các
cơ quan quản lý nhà nước trong nhiều trường
hợp còn thiếu chặt chẽ, hiệu quả chưa cao. Năng lực, ý thức trách nhiệm
và tính năng động của một bộ phận cán bộ, công chức có mặt còn hạn chế; chưa có
cơ chế, chính sách phù hợp trọng dụng người tài.
2. Bài học kinh nghiệm
Một là, cần bảo đảm mối tương quan hợp lý, hài hoà giữa
tăng trưởng và ổn định trong phát triển kinh tế - xã hội. Phải quyết liệt thúc
đẩy tăng trưởng trên nền tảng kiên trì ổn định vĩ mô, khắc phục nguy cơ tụt
hậu. Giải quyết tốt các mối quan hệ giữa tăng trưởng nhanh và phát triển bền
vững; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự
chủ và hội nhập quốc tế…
Hai là, phải thực sự coi trọng
phát triển văn hoá, xã hội và con người tương
xứng với phát triển kinh tế. Coi giáo dục - đào tạo, khoa học, công nghệ
và đổi mới sáng tạo là nền tảng quan trọng và là động lực chủ yếu cho phát
triển đất nước. Tập trung phát huy giá trị
văn hoá, trí tuệ và sức sáng tạo của con người Việt Nam. Từ thực tiễn
công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19, muốn thành công
phải khơi dậy được tinh thần đoàn kết, nhân ái của nhân dân cả nước, cộng đồng
doanh nghiệp, cùng chung tay hành động, bảo đảm an sinh xã hội, xây dựng và
phát huy mạnh mẽ thế trận lòng dân, an ninh nhân dân, quốc phòng toàn dân và
các giá trị văn hoá dân tộc ta.
Ba là, phải đặt lợi ích
quốc gia - dân tộc lên trên hết, phù hợp với thông lệ quốc tế và xu thế của
thời đại; trong lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo, điều hành phải bám sát chủ trương,
đường lối của Đảng, thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, năng động, sáng tạo với quyết
tâm chính trị cao và hành động quyết liệt. Thể chế pháp luật cần được xây dựng
đầy đủ, đồng bộ với tư duy mới, phù hợp với thực tiễn và tổ chức thực hiện
nghiêm túc, hiệu quả. Phải đổi mới quản
trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội. Tập trung cải cách
tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; lấy kết quả
phục vụ và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp làm tiêu chí đánh giá.
Phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực
của nhân dân.
Bốn là, phải thực hiện tốt công tác dự
báo, bảo đảm đánh giá và nhận định đúng, đầy đủ, kịp thời tình hình thế giới và khu vực,
nhất là những biến động lớn ảnh hưởng trực tiếp đến nước ta để có những quyết
sách và hành động nhanh chóng, quyết liệt, phù hợp; xử lý tốt quan hệ giữa hội
nhập quốc tế và đổi mới trong nước, phát huy tối đa và kết hợp chặt chẽ các
nguồn lực, trong đó nội lực là quyết định.
Năm là, cần giữ vững ổn định chính trị, an
ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, xây dựng môi trường hoà bình,
ổn định để tạo thuận lợi cho đất nước phát triển nhanh, bền vững và xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ, có khả năng thích ứng và chống chịu cao hơn trước
những tác động từ bên ngoài.
*
* *
Đánh giá tổng quát, mặc dù trong quá
trình thực hiện Chiến lược, đất nước gặp nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt
là diễn biến phức tạp, nhanh chóng của tình hình chính trị, kinh tế thế giới và
đại dịch Covid-19, nhưng nhờ sự lãnh đạo của Đảng, sự giám sát của Quốc hội và
cùng với sự chủ động điều hành của Chính phủ,
vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị và sự nỗ lực phấn đấu của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất
quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực. Kinh tế vĩ mô ổn định vững
chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm và cải thiện đáng kể.
Tăng trưởng kinh tế đạt khá cao trong bối cảnh thế giới, khu vực gặp nhiều khó
khăn; chất lượng được nâng lên, năng suất lao động được cải thiện rõ nét. Thực
hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình
tăng trưởng đạt kết quả tích cực. Quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh
tế được nâng lên; tính tự chủ và khả năng chống chịu của nền kinh tế được cải
thiện. Phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đạt được những
kết quả quan trọng. Thực hiện tốt các chính sách người có công, bảo đảm an sinh
xã hội. Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, chúng ta vừa quyết liệt phòng, chống
dịch bệnh, vừa duy trì, phát triển các hoạt động kinh tế, xã hội. Đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân mọi miền Tổ quốc tiếp tục được nâng lên rõ rệt.
Xây dựng nông thôn mới hoàn thành sớm gần 2 năm so với mục tiêu Chiến lược đề
ra. Đã hoàn thành trước thời hạn nhiều mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, được
cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng trong các lĩnh vực giảm nghèo, y tế,
dân số, giáo dục và đang tích cực triển khai thực hiện các mục tiêu phát triển
bền vững đến năm 2030. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến
đổi khí hậu và phòng, chống thiên tai được tăng cường. Nguồn lực tài nguyên
được quản lý chặt chẽ, khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn, nhất là đất đai,
khoáng sản. Công tác phòng ngừa, kiểm soát, khắc phục ô nhiễm môi trường ngày
càng được chú trọng hơn. Nhiều giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng,
tránh thiên tai được triển khai và đạt kết quả bước đầu.
Hệ thống pháp luật
được hoàn thiện một bước căn bản, nhất là pháp luật về kinh tế khá đầy đủ. Kiện
toàn tổ chức bộ máy nhà nước, tinh giản biên chế được đẩy mạnh và đạt kết quả
bước đầu. Cải cách hành chính được thực hiện quyết liệt, tập trung cắt giảm,
đơn giản hoá thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, tạo thuận lợi cho người
dân, doanh nghiệp; môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện rõ nét. Công tác
thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng,
lãng phí được đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả tích cực. Xử lý nghiêm nhiều vụ
việc tham nhũng nghiêm trọng, xã hội quan tâm, góp phần củng cố niềm tin trong
nhân dân.
Quốc phòng, an ninh
được tăng cường; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; an
ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Thế trận quốc phòng toàn
dân, thế trận an ninh nhân dân được củng cố ngày càng vững chắc. Tập trung xây
dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại; một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Công tác đối
ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh, đi vào chiều sâu, thực chất
hơn, đạt kết quả quan trọng nhiều mặt. Đối ngoại đa phương có bước chuyển quan
trọng. Quan hệ với các đối tác tiếp tục được mở rộng, thiết thực và hiệu quả;
ký kết và triển khai nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA); thu hút được nhiều
nguồn lực từ bên ngoài, thúc đẩy hội nhập sâu rộng với khu vực, thế giới. Thực
hiện hiệu quả công tác người Việt Nam ở nước ngoài; tạo thuận lợi để đồng bào
hướng về Tổ quốc, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Vị thế và
uy tín của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém và
khó khăn, thách thức. Kết quả phát triển kinh tế - xã hội trên nhiều mặt vẫn
chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và thiếu bền vững. Mục tiêu đưa nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt yêu cầu. Tăng
trưởng kinh tế thấp hơn mục tiêu Chiến lược đề ra, chưa thu hẹp được khoảng cách
phát triển và bắt kịp các nước trong khu vực. Năng suất, chất lượng và sức cạnh
tranh của nền kinh tế chưa cao. Môi trường kinh doanh ở một số lĩnh vực, địa
phương còn hạn chế, chưa thực sự thông thoáng. Các đột phá chiến lược chưa có
bứt phá. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa thực
sự đồng bộ, đầy đủ, hiệu quả. Thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh trên một
số lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp. Thực thi pháp luật nhiều nơi chưa nghiêm.
Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu,
chưa tận dụng tốt lợi thế thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”; khoa học, công nghệ và
đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực phát triển. Hệ thống kết cấu
hạ tầng chưa bảo đảm tính đồng bộ, hiệu quả; quản lý phát triển đô thị còn bất
cập. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Mô
hình tăng trưởng chưa dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo
và tính tự chủ của nền kinh tế; vẫn còn phụ thuộc
lớn vào bên ngoài; chưa quan tâm đúng mức đến chuỗi giá trị và cung ứng trong
nước... nhằm nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền
kinh tế.
Quản lý phát triển
xã hội còn nhiều hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Các lĩnh vực văn
hoá, xã hội, bảo vệ môi trường nhiều mặt còn yếu
kém, khắc phục còn chậm. Một số biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống,
văn hoá ứng xử và những vụ việc bạo lực gia đình, bạo hành trẻ em gây bức xúc
xã hội. Công tác y tế, giáo dục, đào tạo và dạy nghề, chính sách tiền lương
chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, người lao động. Kết quả giảm nghèo chưa
bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao. Chênh lệch giàu - nghèo còn lớn; đời sống
của một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, vùng bị thiên tai; khoảng cách phát triển giữa các địa
phương, vùng, miền còn khá lớn. Quản lý nhà nước về văn hoá, nghệ thuật, tôn
giáo, tín ngưỡng, thông tin truyền thông nhiều mặt còn bất cập. Năng lực và
nguồn lực về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí
hậu, phòng, chống thiên tai còn hạn chế. Tình trạng phá rừng, khai thác cát,
đá, sỏi trái phép còn diễn ra ở nhiều địa phương. Chất lượng môi trường ở nhiều
nơi xuống cấp, nhất là tại các đô thị, khu công nghiệp, làng nghề, lưu vực một
số sông. Tổ chức bộ máy ở một số lĩnh vực chưa thực sự tinh gọn, hiệu quả; chức
năng, nhiệm vụ của một số cơ quan còn chồng chéo; hệ thống tổ chức các đơn vị
sự nghiệp công lập còn cồng kềnh, phân tán; xã hội hoá dịch vụ sự nghiệp công chưa đáp ứng yêu cầu. Năng lực, phẩm chất,
ý thức kỷ luật của một bộ phận cán
bộ, công chức, viên chức chưa cao; còn tình trạng nhũng nhiễu, tham
nhũng vặt, gây bức xúc cho người dân, doanh nghiệp.
Sự gắn kết giữa phát
triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh chưa thực sự chặt chẽ,
hiệu quả. Bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều khó khăn,
thách thức; an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên một số địa bàn còn diễn biến
phức tạp, nhất là tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, sử dụng công nghệ cao,
ma tuý và tệ nạn xã hội; còn xảy ra nhiều vụ tai nạn giao thông, cháy nổ nghiêm
trọng. Công tác bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng còn bất cập. Chưa khai
thác hết và tận dụng hiệu quả quan hệ đối ngoại với lợi ích đan xen và ổn định
với các đối tác quan trọng; ngoại giao đa phương chưa phát huy hết các lợi thế.
Việc thực hiện các thoả thuận, cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại tự do
hiệu quả chưa cao; chưa tranh thủ hết những cơ hội và lợi ích của hội nhập quốc
tế cho phát triển đất nước.
Phần thứ
hai
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 2021 - 2030
Chủ đề
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030 là:
Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hoá,
con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển
nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; đến năm
2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
I- BỐI CẢNH
Hoà bình, hợp tác, liên kết và phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng cạnh
tranh chiến lược giữa các nước lớn rất phức tạp, gay gắt; cục diện đa cực ngày
càng rõ nét. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng gặp
nhiều trở ngại, thách thức; chủ nghĩa dân tuý, bảo hộ có xu hướng tăng lên; sự điều chỉnh
chính sách, quan hệ đối ngoại của các nước lớn trong khu vực và trên thế giới
diễn biến khó lường. Tăng trưởng kinh tế thế giới và thương mại, đầu tư quốc tế
có xu hướng giảm; nợ công toàn cầu tăng, rủi ro trên thị trường tài chính, tiền
tệ quốc tế gia tăng. Đặc biệt, đại dịch Covid-19 diễn
biến phức tạp, khó kiểm soát, gây ra suy thoái trầm trọng và khủng hoảng kinh
tế toàn cầu, có khả năng kéo dài sang đầu thập niên 20; làm thay đổi sâu
sắc trật tự, cấu trúc kinh tế, phương thức quản trị toàn cầu, cách thức hoạt
động kinh tế và tổ chức đời sống xã hội của thế giới.
Khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương có vị trí trọng yếu trên thế giới, tiếp tục là động
lực quan trọng của kinh tế toàn cầu, song tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định
do cạnh tranh chiến lược, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên. Tình hình Biển Đông diễn biến ngày càng phức tạp, khó
lường, đe doạ nghiêm trọng đến hoà bình, ổn định của khu vực và môi trường đầu
tư phát triển.
Sau 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thế và lực của nước ta đã
lớn mạnh hơn nhiều; quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng
lên; tính tự chủ của nền kinh tế được cải thiện; tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế vĩ mô cơ bản
ổn định, niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội tăng lên. Chất lượng
tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện, cơ cấu kinh tế bước đầu dịch
chuyển sang chiều sâu, hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cho nền kinh tế được
cải thiện đáng kể, tăng độ mở nền kinh tế và thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) lớn. Khu vực tư nhân đóng góp ngày càng lớn và trở thành một động
lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Chính trị - xã hội ổn
định, các lĩnh vực văn hoá, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại
được quan tâm và có sự chuyển biến tích cực; tầng lớp trung lưu gia tăng nhanh; tiếp tục tận
dụng cơ hội dân số vàng; thành quả xây dựng nông thôn mới được củng cố, đời
sống mọi mặt của người dân không ngừng được cải thiện. Khát vọng vì một Việt Nam thịnh vượng, ý chí tự lực, tự cường
là sức mạnh nội sinh cho đất nước phát triển nhanh và bền vững trong thời gian
tới.
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn
những tồn tại, hạn chế và tiềm ẩn nhiều rủi ro, nguy cơ tụt hậu còn lớn; các yếu
tố nền tảng như thể chế, hạ tầng, nguồn nhân lực... để đưa Việt Nam sớm trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại còn thấp so với yêu cầu; trình độ
khoa học, công nghệ, năng suất, chất lượng,
hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp; độ mở nền kinh tế cao, khả năng chống
chịu, thích ứng với tác động bên ngoài còn yếu; năng lực tiếp cận nền kinh tế số,
xã hội số còn hạn chế. Tăng trưởng GDP có xu hướng chững lại, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập
trung bình và tụt hậu xa hơn về kinh tế vẫn còn là thách thức lớn. Mục tiêu xây dựng đất nước trở
thành một nước công nghiệp còn nhiều thách thức.
Quá trình đô thị hoá tiếp tục diễn ra nhanh, tạo sức ép
lớn về nhu cầu phát triển hạ tầng và xử lý ô nhiễm môi trường. Thách thức về
khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững nguồn nước, tài nguyên và đất đai. Biến
đổi khí hậu diễn biến ngày càng nhanh, khốc liệt và khó lường, ảnh hưởng lớn
đến sản xuất và cuộc sống người dân. Chênh lệch giàu - nghèo và trình độ phát
triển giữa một số vùng, miền, địa phương có xu hướng doãng rộng. Già hoá dân số tăng nhanh dẫn đến áp lực lên hệ thống an sinh xã hội và tác động đến tăng trưởng kinh tế. Nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ
quyền, bảo đảm an ninh quốc gia gặp nhiều khó khăn, thách thức; tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên một
số địa bàn và sự chống phá của thế lực thù
địch, phản động còn diễn biến phức tạp. Các yếu tố
an ninh phi truyền thống, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu… dự báo diễn
biến khó lường, ngày càng tác động, ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất và đời sống.
Đặc biệt, dịch bệnh Covid-19 có thể sẽ ảnh hưởng tiêu cực, kéo dài đến những
năm đầu của kỳ Chiến lược; yêu cầu đặt ra không chỉ hoá giải các nguy cơ, vượt
qua khó khăn, thách thức mà còn phải tích cực, chủ động trước vận hội mới, thời
cơ mới khi cấu trúc kinh tế thế giới, quản trị toàn cầu được định hình lại, phương
thức sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng và đời sống xã hội thay đổi sau đại dịch.
Trong bối cảnh mới đầy khó khăn,
thách thức, phải đổi mới tư duy phát triển, thay đổi cách làm việc, cách sống,
đẩy mạnh cải cách thể chế, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng
tạo; thực hiện quyết liệt chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số,
kích cầu đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng quy mô lớn, thúc đẩy tiêu dùng nội
địa, giải quyết việc làm. Tập trung nâng cao năng lực, tận dụng thời cơ, chuyển
hướng và tổ chức lại các hoạt động kinh tế; có giải pháp chính sách khắc phục tác động của dịch bệnh Covid-19, nhanh chóng phục hồi nền kinh tế; xây dựng các mô hình
phát triển mới, tận dụng tốt các cơ hội thị trường và xu hướng chuyển dịch đầu
tư, sản xuất trong khu vực, toàn cầu. Phát huy mạnh mẽ vai trò của các doanh
nghiệp thuộc mọi loại hình sở hữu, chủ động tham gia vào các liên kết kinh tế,
chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị mà các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mang
lại. Thúc đẩy hình thành các chuỗi liên kết, chuỗi giá trị trong nước, phát
triển mạnh thị trường nội địa. Từng bước hình thành năng lực sản xuất quốc gia
mới có tính tự chủ và khả năng chống chịu hiệu quả trước các cú sốc từ bên
ngoài. Với niềm tin và khát vọng vươn
lên mạnh mẽ của toàn dân tộc, Việt Nam cần nhanh chóng bứt phá, rút ngắn khoảng
cách phát triển với khu vực và thế giới, nỗ lực phấn đấu hướng tới mục tiêu sớm
trở thành nước thu nhập trung bình cao.
1. Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu
vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy
và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu
lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số; nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát huy
tối đa lợi thế của các vùng, miền; phát triển hài hoà giữa kinh tế với văn hoá,
xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; quan tâm,
tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng chính sách, người có công, người
nghèo, người yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số.
2. Lấy cải cách, nâng cao chất
lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ,
hiện đại, hội nhập và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên
quyết để thúc đẩy phát triển đất nước. Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong
huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực sản xuất, nhất là đất đai.
Hệ thống pháp luật phải thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển
các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh tế mới. Phải coi trọng hơn quản lý
phát triển xã hội; mở rộng dân chủ phải gắn với giữ vững kỷ luật, kỷ cương.
Phát triển nhanh, hài hoà các khu vực kinh tế và các loại hình doanh nghiệp;
phát triển kinh tế tư nhân thực sự là một động lực quan trọng của nền kinh
tế.
3. Khơi dậy khát vọng phát
triển đất nước, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tối đa nhân tố con người, coi
con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát
triển; lấy giá trị văn hoá, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh
quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách
phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà
nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc
của nhân dân.
4. Xây dựng nền kinh tế tự chủ
phải trên cơ sở làm chủ công nghệ và chủ động, tích cực hội nhập, đa dạng hoá
thị trường, nâng cao khả năng thích ứng của nền kinh tế. Phải hình thành năng
lực sản xuất quốc gia mới có tính tự chủ, tham gia hiệu quả, cải thiện vị trí
trong chuỗi giá trị toàn cầu và khả năng chống chịu hiệu quả trước các cú sốc
từ bên ngoài. Phát huy nội lực là yếu tố quyết định gắn với ngoại lực và sức
mạnh thời đại. Không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế, phát triển lực lượng
doanh nghiệp của người Việt Nam ngày càng vững mạnh và huy động sức mạnh tổng
hợp của đất nước, nâng cao hiệu quả và lợi ích do hội nhập quốc tế mang lại.
5. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia;
gắn kết chặt chẽ, hài hoà giữa phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội với củng cố
quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại;
giữ vững an ninh chính trị; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Xây dựng xã hội trật
tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.
III- MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC
1. Mục tiêu tổng quát
Đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện
đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu
lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ
trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả
trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; khơi dậy khát vọng phát triển
đất nước, phát huy sức sáng tạo, ý chí và sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm cuộc sống
hạnh phúc của người dân; không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân;
bảo vệ vững chắc Tổ quốc, môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước;
nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Phấn đấu đến năm
2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
a) Về kinh tế
- Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân khoảng 7%/năm; GDP bình
quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2030 đạt khoảng 7.500 USD/người.
- Tỉ trọng công
nghiệp chế biến, chế tạo đạt khoảng 30% GDP, kinh tế số đạt khoảng 30% GDP.
- Tỉ lệ đô thị hoá
đạt trên 50%.
- Tổng đầu tư xã hội
bình quân đạt 33 - 35% GDP; nợ công không quá 60% GDP.
- Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt 50%.
- Tốc độ tăng năng
suất lao động xã hội đạt trên 6,5%/năm.
- Giảm tiêu hao năng lượng tính trên đơn vị GDP ở mức 1 - 1,5%/năm.
b) Về xã hội
- Chỉ số phát triển
con người (HDI) đạt trên 0,7.
- Tuổi thọ bình quân
đạt 75 tuổi, trong đó thời gian sống khoẻ đạt tối thiểu 68 tuổi.
- Tỉ lệ lao động qua
đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35 - 40%.
- Lao động làm việc
trong khu vực nông nghiệp giảm xuống dưới 20% trong tổng lao động nền kinh tế.
c) Về môi trường
- Tỉ lệ che phủ rừng
ổn định ở mức 42 - 43%.
- Tỉ lệ xử lý và tái sử dụng nước thải ra môi trường lưu
vực các sông đạt trên 70%.
- Giảm ít nhất 8% lượng phát thải
khí nhà kính.
- 100% các cơ sở sản xuất kinh
doanh đạt quy chuẩn về môi trường.
- Tăng diện tích các khu bảo tồn
biển, ven biển đạt 3 - 5% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia.
IV- CÁC ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC
1. Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao
chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ,
đồng bộ, hiện đại, hội nhập, trọng tâm là thị trường các yếu tố sản xuất,
nhất là thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ. Huy động, sử dụng
các nguồn lực thực hiện theo cơ chế thị trường. Đổi mới quản trị quốc gia
theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội. Xây dựng bộ
máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả; đẩy
mạnh phân cấp, phân quyền bảo đảm quản lý thống nhất, phát huy tính chủ động,
sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành.
2. Tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học,
công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước,
lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị văn hoá, con người
Việt Nam.
Đẩy nhanh thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện và nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo, trọng tâm là hiện đại hoá và thay đổi
phương thức giáo dục, đào tạo, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề
nghiệp. Chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao, phát hiện và bồi
dưỡng nhân tài; có chính sách vượt trội để thu hút, trọng dụng nhân tài, chuyên
gia cả trong và ngoài nước.
Phát triển mạnh mẽ khoa học công
nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Có thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù,
vượt trội, thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao công nghệ; nâng cao năng lực nghiên cứu, làm chủ một số công nghệ mới, hình thành năng
lực sản xuất mới có tính tự chủ và khả năng thích ứng, chống chịu của nền kinh
tế; lấy doanh nghiệp làm trung tâm nghiên cứu phát triển,
ứng dụng và chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ số. Phát triển hệ thống
đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo.
Phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam;
khơi dậy mạnh mẽ khát vọng phát triển của dân tộc, tinh thần yêu nước, tự hào,
ý chí tự cường và lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội; xây dựng
môi trường và đời sống văn hoá phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh, hội
nhập quốc tế; đề cao ý thức, trách nhiệm, đạo đức xã hội, sống và làm việc theo
pháp luật.
3. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội đồng bộ, hiện đại, trọng tâm là ưu tiên phát triển hạ tầng trọng yếu về giao
thông, năng lượng, công nghệ thông tin, đô thị lớn, hạ tầng ứng phó với biến
đổi khí hậu. Phát triển mạnh hạ tầng số, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng
dữ liệu quốc gia, vùng, địa phương kết nối đồng bộ, thống nhất, tạo nền tảng
phát triển kinh tế số, xã hội số.
V- PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ -
XÃ HỘI
1. Tập trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà
nước, thị trường và xã hội
Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế,
pháp luật đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, ổn định, cụ thể, minh bạch. Tăng
cường hiệu lực, hiệu quả các thiết chế thi hành pháp luật, bảo đảm chấp hành
pháp luật nghiêm minh. Phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường các yếu tố sản
xuất, nhất là các thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ. Bảo đảm
đầy đủ quyền tự do, an toàn trong hoạt động kinh doanh; huy động, phân bổ, sử
dụng hiệu quả các nguồn lực theo nguyên tắc thị trường. Xây dựng, thử nghiệm,
hoàn thiện khung khổ pháp lý, trước hết là pháp luật về doanh nghiệp, khởi
nghiệp sáng tạo, sở hữu trí tuệ, thương mại, đầu tư, kinh doanh để tạo điều
kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số quốc gia và phát triển các sản phẩm,
dịch vụ, mô hình kinh tế mới, kinh tế số, cung cấp dịch vụ công, quản lý và bảo
vệ môi trường… theo nguyên tắc thị trường.
Nhà nước thực hiện tốt chức năng xây dựng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực phát triển theo cơ chế
thị trường. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh,
thực thi hợp đồng của người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Sử
dụng thể chế, các nguồn lực, công cụ điều tiết, cơ chế, chính sách phân phối,
phân phối lại để phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh, nâng cao phúc lợi xã
hội và bảo vệ môi trường.
Phát huy vai trò của người dân, doanh
nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp và cộng đồng trong tham gia
xây dựng, phản biện và giám sát thực hiện pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà
nước. Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, mặt trận và các đoàn thể
để thi đua phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và xây dựng
chính quyền các cấp.
Cải cách quyết liệt, hiệu quả thủ tục hành chính, bãi bỏ
các rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh, cải thiện và nâng cao chất lượng
môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch. Phấn
đấu đến năm 2030 môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 quốc
gia hàng đầu.
Xây dựng nhanh nền hành chính hiện đại, dựa trên đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo,
phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, phục vụ người dân, doanh nghiệp;
thực hiện phương thức, công cụ quản lý
nhà nước chủ yếu bằng điều tiết gián tiếp, tăng cường hậu kiểm; giảm tối đa rủi ro pháp lý và chi phí tuân thủ đối với
người dân và doanh nghiệp. Đẩy mạnh xây
dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số, trong đó tập trung phát
triển hạ tầng số phục vụ các cơ quan nhà nước một cách tập trung, thông suốt;
thiết kế đồng bộ, xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống tích hợp, kết nối liên
thông các cơ sở dữ liệu lớn, nhất là dữ liệu về dân cư, y tế, giáo dục, bảo
hiểm, doanh nghiệp, đất đai, nhà ở, phục vụ kịp thời, hiệu quả cho phát triển
kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Thực hiện chuyển đổi số quốc gia một
cách toàn diện để phát triển kinh tế số, xây dựng xã hội số. Phấn đấu đến năm 2030 hoàn thành xây dựng chính phủ số;
đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN
về chính phủ điện tử, kinh tế số.
Đổi mới mạnh mẽ phân cấp, phân quyền, uỷ quyền và nâng
cao hiệu quả phối hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Củng cố,
hoàn thiện hệ thống chính quyền địa phương; phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn
giữa Trung ương và địa phương. Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế địa
phương và kinh tế vùng trên cơ sở phát huy hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của
từng vùng, địa phương. Phân định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi của các cấp ngân
sách theo hướng tăng cường vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương, đồng thời
bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, khuyến khích và thúc đẩy sáng tạo của
chính quyền địa phương.
2. Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng
tạo nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế
Tập trung
hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường và
thông lệ quốc tế để phát triển nền khoa học Việt Nam; phát triển mạnh khoa học,
công nghệ và đổi mới sáng tạo, lấy
doanh nghiệp làm trung tâm;
thúc đẩy phát triển mô hình kinh doanh mới, kinh tế số, xã hội số. Có cơ chế, chính sách kinh tế, tài chính khuyến
khích các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ. Cho phép thực hiện cơ chế thử nghiệm chính sách mới,
thúc đẩy triển khai và ứng dụng công nghệ mới, đổi mới sáng tạo, mô hình kinh
doanh mới. Xác định rõ các chỉ tiêu, chương trình hành động để ứng dụng và phát
triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong mọi mặt hoạt động ở các
cấp, các ngành, địa phương.
Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khoa học
xã hội và nhân văn để có cơ sở khoa học phục vụ tốt nhất sự nghiệp đổi mới,
phát triển kinh tế, xã hội. Khơi dậy sức sáng tạo, nâng cao trách nhiệm và tôn
trọng sự khác biệt trong công tác nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn. Gắn kết
chặt chẽ khoa học xã hội và nhân văn với khoa học tự nhiên và công nghệ trong
quá trình triển khai các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Phát triển mạnh khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo là động lực chính
của tăng trưởng kinh tế. Thực hiện chuyển đổi số trong quản trị quốc gia, quản
lý nhà nước, sản xuất, kinh doanh, tổ chức xã hội. Ứng dụng và phát triển công
nghệ mới, ưu tiên công nghệ số, kết nối 5G và sau 5G, trí tuệ nhân tạo, chuỗi
khối (blockchain), in 3D, Internet vạn vật, an ninh mạng, năng lượng sạch, công
nghệ môi trường để chuyển đổi, nâng cao năng suất, hiệu quả của nền kinh tế.
Đổi mới mạnh mẽ cơ chế hoạt động
nghiên cứu, quản lý khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, tạo thuận lợi cho
nghiên cứu, chuyển giao phù hợp với cơ chế thị trường, nâng cao tính tự chủ của
các đơn vị nghiên cứu khoa học, công nghệ công lập. Quan tâm đầu tư đúng mức
nghiên cứu khoa học cơ bản; tập trung nghiên cứu, ứng dụng công nghệ lõi, công
nghệ số. Cơ cấu lại, nâng cao năng lực, hiệu quả các cơ sở nghiên cứu; đẩy mạnh
nghiên cứu khoa học, công nghệ trong các doanh nghiệp, trường đại học, cơ sở
đào tạo gắn với nhu cầu thị trường. Tăng cường liên kết doanh nghiệp với các
viện nghiên cứu, trường đại học, trong đó tập trung vào nâng cao năng lực của
doanh nghiệp về tiếp thu, làm chủ và từng bước tham gia tạo ra công nghệ mới. Khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài hình thành các trung tâm nghiên cứu và triển khai, đổi
mới sáng tạo tại Việt Nam. Đổi mới căn bản cơ chế
quản lý ngân sách nhà nước chi cho khoa học, công nghệ; thực hiện cơ chế Nhà
nước đặt hàng nghiên cứu các đề tài khoa học, công nghệ. Cơ cấu lại các chương
trình, nhiệm vụ khoa học, công nghệ, gắn với nhu cầu xã hội, chuỗi giá trị của
sản phẩm, tạo giá trị gia tăng.
Lấy việc nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế là tiêu chí đánh giá
hiệu quả hoạt động của khoa học, công nghệ. Lựa chọn và tập trung hỗ trợ triển khai nghiên cứu,
ứng dụng phát triển công nghệ cho một số ngành và lĩnh vực then chốt. Đẩy mạnh các
hoạt động nghiên cứu, triển khai, trong đó chú trọng nghiên cứu ứng dụng và
thương mại hoá kết quả.
3. Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu
cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội
nhập quốc tế
Xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khoẻ, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với
bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học
đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực
quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý
xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người.
Đổi mới và nâng cao chất
lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt; bảo đảm thống nhất với đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực gắn với chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, nhất là ở nông thôn.
Chú trọng đào tạo lại, đào tạo thường xuyên lực lượng lao động. Hình thành đội
ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, gắn kết
chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao động. Đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng,
trọng dụng nhân tài trong quản lý, quản trị nhà nước, khoa học, công nghệ và
đổi mới sáng tạo.
Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo.
Nghiên cứu để hoàn thiện, ổn định hệ thống sách giáo khoa và chế độ thi cử ở
các cấp học. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; từ học chủ yếu trên lớp
sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý dạy và học trực tuyến, qua Internet,
truyền hình, các hoạt động xã hội, ngoại khoá, nghiên cứu khoa học; giáo dục
nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ
cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc,
ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc
tế (công dân toàn cầu).
Thực
hiện phổ cập giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học bắt buộc. Đưa vào chương
trình giáo dục phổ thông nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu. Đẩy mạnh
phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông.
Giảm tỉ lệ mù chữ ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.
Sắp xếp lại hệ thống
trường học; phát triển hài hoà giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa
các vùng, miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên
giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách. Đa dạng hoá các
loại hình đào tạo, hoàn thiện chính sách phát triển các cơ sở đào tạo ngoài
công lập, thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào
tạo bậc đại học phù hợp với xu thế chung của thế giới. Có cơ chế hỗ trợ
xây dựng một số trường đại học lớn và đại học sư phạm trở thành những trung tâm
đào tạo có uy tín trong khu vực và thế giới.
4. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ cấu lại nền
kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả; phát
triển nền kinh tế số; thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô
Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá dựa trên
nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng quy hoạch, kế
hoạch phát triển quốc gia, các vùng, các ngành, lĩnh vực phù hợp với thực tiễn
đất nước nhằm nâng cao tính tự chủ, khả năng thích ứng và sức chống chịu
của nền kinh tế.
Xây dựng và thực hiện các giải pháp chính sách khắc phục
tác động của dịch bệnh Covid-19, nhanh chóng phục hồi nền kinh tế, tận dụng hiệu
quả các cơ hội mới cho phát triển đất nước. Tổ chức thực hiện hiệu quả và thực
chất các nội dung cơ cấu lại nền kinh tế để đổi mới mô hình tăng trưởng, tăng
năng suất lao động nhằm hiện đại hoá nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh. Thúc
đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, sản xuất thông minh, các mô hình sản xuất
kinh doanh mới, kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử. Thực hiện chuyển đổi số
trong tất cả các doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước.
Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả các chính sách tài khoá, tiền tệ, đầu tư, thị trường, giá cả, thương mại và các chính
sách khác để kiểm soát lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và thúc đẩy
phát triển kinh tế, xã hội. Tiếp tục cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư
công, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đổi mới toàn diện thể chế quản lý đầu tư
công, thẩm định, đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư công. Công khai, minh bạch
thông tin và tăng cường giám sát đối với đầu
tư công. Hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh hợp tác công - tư nhằm huy động
nguồn lực xã hội vào phát triển kết cấu hạ tầng và cung ứng dịch vụ công.
Xây dựng và hoàn thiện nền tài chính quốc gia; cơ cấu lại, tăng cường giám
sát và điều tiết các thị trường tài chính. Nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động,
năng lực cạnh tranh, tính minh bạch và áp dụng các chuẩn mực, thông lệ quốc tế
tốt trong quản trị và hoạt động của các tổ chức tín dụng, bảo đảm phù hợp với
điều kiện thực tế của Việt Nam. Cơ cấu lại ngân sách nhà nước theo hướng bảo
đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, góp phần ổn định vững chắc kinh
tế vĩ mô; đồng thời phải đặt trong tổng thể cơ cấu lại nền kinh tế, gắn với đổi
mới mô hình tăng trưởng, huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
tài chính thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp tục cơ cấu lại thu, chi
ngân sách nhà nước, tăng tỉ lệ thu nội địa, tăng tích luỹ từ ngân sách nhà nước
cho chi đầu tư phát triển; tăng sức chống chịu, bảo đảm an toàn, an ninh tài
chính quốc gia. Cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công, hạn chế tối đa
cấp bảo lãnh chính phủ cho các khoản vay mới; đến năm 2030, nợ chính phủ không
quá 50% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia không quá 45% GDP. Tiếp tục rà soát, cơ
cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động các thị trường tài chính, chứng khoán, cổ
phiếu, trái phiếu; quản lý chặt chẽ các tổ chức tham gia thị trường; bảo đảm
tính thanh khoản cao và an toàn hệ thống. Nâng cao quy mô và hiệu quả hoạt động
của thị trường chứng khoán để thực sự trở thành một kênh huy động vốn chủ yếu
của nền kinh tế. Có chính sách khuyến khích phát triển các quỹ hưu trí, bảo
hiểm thiên tai, nông nghiệp.
Hoàn thiện hệ thống
chính sách thuế, phí, lệ phí hợp lý theo hướng mở rộng cơ sở thu, bảo đảm tính
công bằng, trung lập của chính sách thuế; nâng cao sức cạnh tranh của môi
trường đầu tư, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đơn giản hoá thủ tục hành
chính, giảm chi phí tuân thủ các thủ tục nộp thuế, phí của người dân và doanh
nghiệp. Cải cách thể chế về quyền tài sản, tập trung vào các khâu đăng ký sở
hữu và sử dụng tài sản, xử lý tài sản thế chấp ngân hàng, thủ tục phá sản. Hoàn
thiện pháp luật để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên,
bảo đảm công khai, minh bạch và khắc phục tình trạng tranh chấp, khiếu kiện,
tham nhũng, lãng phí; đổi mới các chính sách quản lý đất để khuyến khích và
tạo điều kiện tích tụ đất nông nghiệp, phát triển mạnh thị trường quyền sử dụng
đất. Đổi mới và thực hiện chế độ quản lý mục đích sử dụng đất nông nghiệp một
cách linh hoạt hơn; bãi bỏ các giới hạn về đối tượng được nhận chuyển nhượng
đất nông nghiệp, tăng thời hạn giao đất, cho thuê đất nông nghiệp. Công khai,
minh bạch việc quản lý, sử dụng đất công; tăng cường giám sát, quản lý chặt
chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất giao cho các cộng đồng và doanh nghiệp nhà
nước.
Thực hiện chế độ
kiểm toán, kế toán, thống kê phù hợp với chuẩn mực quốc tế và nâng cao chất
lượng công tác phân tích, dự báo phục vụ quản lý, điều hành.
Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm
năng, lợi thế và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần
bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực, thế giới.
Đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, đẩy
nhanh ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, quản trị theo chuẩn mực
quốc tế; bảo đảm doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng vật chất quan trọng của
kinh tế nhà nước. Đẩy mạnh cơ cấu lại,
cổ phần hoá, thoái vốn; nâng cao hiệu quả hoạt động, sử dụng vốn của các doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới
cách thức thực hiện cổ phần hoá, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, nhất là các biện pháp liên quan đến xác
định giá trị quyền sử dụng đất, tài sản cố định, thương hiệu và giá trị
truyền thống của doanh nghiệp cổ phần hoá. Hoàn tất việc sắp xếp lại khối doanh
nghiệp nhà nước. Tiền thu được từ cổ phần hoá, thoái vốn nhà nước tập trung đầu
tư các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, quan trọng quốc gia, địa phương,
bổ sung vốn điều lệ cho doanh nghiệp nhà nước then chốt quốc gia. Hình thành đội
ngũ quản lý doanh nghiệp nhà nước chuyên nghiệp, có trình độ cao, phẩm chất đạo
đức tốt. Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt
động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành,
lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của
các tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã gắn với phát huy vai trò làm chủ, tăng
cường lợi ích của các thành viên, nâng cao khả năng huy động nguồn lực.
Phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân của người Việt Nam cả về số
lượng, chất lượng, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng
trong phát triển kinh tế. Xoá bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận
lợi để phát triển kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi
mới sáng tạo, hiện đại hoá công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao
năng suất lao động. Khuyến
khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh,
có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế. Phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất 2
triệu doanh nghiệp với tỉ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP
đạt 60 - 65%.
Chuyển trọng điểm chính sách thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất lượng, có giá trị gia tăng cao, lấy hiệu quả và công
nghệ sử dụng làm thước đo chủ yếu, quan trọng nhất đi
cùng với bảo vệ môi trường, phát triển bền vững. Nâng cao hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài có trọng tâm, trọng điểm, có
chọn lọc, ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công
nghệ cao, quản trị hiện đại, năng lực đổi
mới sáng tạo, kết nối chuỗi cung ứng toàn cầu, có tác động lan toả, kết
nối chặt chẽ, hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước.
Đẩy mạnh
cơ cấu lại nông nghiệp, khai thác và phát huy lợi thế nền nông nghiệp
nhiệt đới, phát triển nông nghiệp hàng hoá tập trung quy
mô lớn theo hướng hiện đại, vùng chuyên canh hàng hoá chất lượng cao. Phát
triển mạnh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sạch, nông nghiệp hữu cơ, nông
nghiệp sinh học, đạt tiêu chuẩn phổ biến về an toàn thực phẩm. Đổi mới chính sách quản lý và sử dụng đất
trồng lúa, hằng năm sản xuất khoảng 35 triệu tấn lúa làm nòng cốt bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; thực hiện
chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với lợi thế và nhu cầu thị trường; tăng khả
năng chống chịu, thích ứng của nông dân với biến đổi khí hậu từng vùng, miền;
hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, ổn định. Tổ chức kết nối nông
nghiệp với công nghiệp chế biến, thị trường, xuất khẩu, chuỗi giá trị toàn cầu.
Phát triển chăn nuôi
công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khuyến khích phát triển chăn nuôi trang
trại, gia trại hiệu quả cao, thân thiện với môi trường. Phát triển nuôi trồng
thuỷ sản cả trên biển và mặt nước nội địa theo hướng công nghiệp, quảng canh
cải tiến, sinh thái; nâng cao hiệu quả khai thác hải sản xa bờ, phát triển đánh
bắt đại dương. Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ và phát triển nguồn
lợi thuỷ sản.
Quản lý chặt chẽ,
bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh
quan, môi trường sinh thái. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng rừng trồng,
nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng phòng hộ ven biển. Chú
trọng phát triển trồng rừng gỗ lớn, nâng cao hiệu quả rừng trồng, lâm đặc sản,
đáp ứng cơ bản nhu cầu lâm sản trong nước và làm nguyên liệu chế biến xuất
khẩu. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào các chuỗi giá trị lâm nghiệp.
Đổi mới và phát triển các
hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả; đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ
nông sản, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu. Phát triển mạnh doanh nghiệp nông
nghiệp; hỗ trợ, khuyến
khích phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã nông nghiệp và các tổ hợp
tác. Nâng cao trình độ nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ, phát triển mạnh nông nghiệp công nghệ cao nhằm tạo đột
phá về năng suất, chất lượng và quản trị ngành; nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực ngành nông nghiệp. Tăng cường năng lực
hội nhập quốc tế; hỗ trợ doanh nghiệp về các vấn đề pháp lý trong giải quyết
tranh chấp thương mại, giảm thiểu rủi ro trong hội nhập quốc tế.
Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh. Phát triển công nghiệp kết
hợp hài hoà cả chiều rộng và chiều sâu, trong đó chú trọng phát triển theo
chiều sâu, tạo bước đột phá trong nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh
tranh của sản phẩm. Phấn đấu nâng tỉ trọng công nghiệp trong GDP vào năm 2030
đạt trên 40%; giá trị gia tăng công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân đầu
người đạt trên 2.000 USD. Tập trung cơ cấu
lại công nghiệp theo hướng nâng cao trình độ công nghệ, đổi mới sáng tạo và
chuyển đổi số, khai thác triệt để cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư và lợi thế thương mại. Đẩy mạnh chuyển đổi số, phương thức sản xuất kinh
doanh trong doanh nghiệp công nghiệp, tăng khả năng kết nối, tiếp cận thông
tin, dữ liệu để tăng cơ hội kinh doanh mới và tăng khả năng tham gia chuỗi giá
trị toàn cầu và khu vực.
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp theo hướng tăng các
ngành công nghiệp có công nghệ, giá trị gia tăng cao và dịch chuyển lên các
công đoạn có giá trị cao trong chuỗi giá trị gia tăng của từng ngành công
nghiệp. Ban hành các tiêu chuẩn công nghệ, kỹ thuật sản xuất theo hướng hiện
đại.
Tập trung phát
triển một số ngành công nghiệp nền tảng đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản xuất cơ
bản của nền kinh tế như công nghiệp năng lượng, cơ khí chế tạo, luyện kim, hoá
chất, phân bón, vật liệu...
Ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ mới, công
nghệ cao: Công nghệ thông tin và truyền thông, công nghiệp điện tử - viễn
thông, công nghiệp sản xuất robot, ô tô, thiết bị tích hợp
vận hành tự động, điều khiển từ xa, công nghiệp sản xuất phần mềm, sản phẩm số,
công nghiệp an toàn thông tin, công nghiệp dược phẩm, sản xuất chế phẩm sinh
học, công nghiệp môi trường, công nghiệp năng lượng
sạch, năng lượng tái tạo, năng lượng thông minh, công nghiệp chế biến, chế tạo
phục vụ nông nghiệp và vật liệu mới đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng
lượng, nguyên liệu. Tiếp tục phát triển công nghiệp dệt may, da giày, tập trung
vào các khâu tạo giá trị gia tăng cao dựa trên quy trình sản xuất thông minh,
tự động hoá.
Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, thực sự trở thành một mũi nhọn của công nghiệp quốc
gia; nghiên cứu sản xuất vũ khí công nghệ cao; tăng cường tiềm
lực, tận dụng và đẩy mạnh phát triển liên
kết công nghiệp quốc phòng, an ninh và công nghiệp dân sinh.
Ứng dụng công nghệ
cao trong tổ chức sản xuất nhằm tạo ra những thay đổi thực chất trong một số
ngành công nghiệp, tạo ra tác động lan toả và dẫn dắt việc cơ cấu lại toàn
ngành công nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh và tham gia sâu hơn vào chuỗi
giá trị công nghiệp toàn cầu.
Tập trung phát triển
công nghiệp hỗ trợ và hình thành cụm ngành công nghiệp trong một số ngành công
nghiệp ưu tiên. Khơi dậy nội lực, khuyến khích mạnh mẽ sự phát triển của doanh
nghiệp tư nhân trong nước, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghiệp chế tạo, công
nghệ cao, công nghiệp công nghệ thông tin, hình thành các
chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị trong nước và quốc tế, bảo đảm chất lượng, quy
định về truy xuất nguồn gốc. Tăng cường liên kết giữa khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài, nhất là các tập đoàn đa quốc gia với doanh nghiệp trong nước trong
phát triển chuỗi cung ứng của các ngành công nghiệp.
Phát huy hiệu quả
các khu, cụm công nghiệp, khu công nghệ thông tin tập trung và đẩy mạnh phát
triển công nghiệp theo hình thức cụm liên kết ngành, nhóm sản phẩm chuyên môn
hoá và tạo thành các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn, hiệu quả cao và theo lợi
thế của các địa phương tại một số vùng, địa bàn trọng điểm.
Phát
triển một số doanh nghiệp viễn thông, công nghệ thông tin chủ lực thực hiện tốt vai trò dẫn dắt về hạ tầng công nghệ số, nền tảng
cho nền kinh tế số, xã hội số gắn với bảo đảm an toàn, an ninh thông tin. Tập
trung sản xuất các thiết bị phục vụ hệ thống 5G.
Nâng cao năng lực
ngành xây dựng, bảo đảm đủ sức thiết kế, thi công các công trình xây dựng hiện
đại, phức tạp trong các lĩnh vực với mọi quy mô
và có khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường hoạt động ra nước ngoài.
Đẩy mạnh cơ cấu lại các ngành dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại,
công nghệ số, phát triển các loại dịch vụ mới, xây dựng hệ sinh thái dịch vụ
trong các lĩnh vực dịch vụ như tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm, pháp lý, y tế, giáo dục - đào tạo, viễn thông và
công nghệ thông tin, logistics và vận tải, phân phối... Áp dụng chuẩn mực quốc tế cho các hoạt động kế toán, kiểm toán, ngân hàng
thương mại... Xây dựng thương hiệu sản phẩm quốc gia. Thúc đẩy phát triển
thương mại trong nước theo hướng hiện đại, tăng trưởng nhanh và bền vững, gắn
với nâng cao uy tín, chất lượng hàng Việt Nam chinh phục người tiêu dùng Việt
Nam, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về chất lượng, an toàn thực phẩm; bảo vệ lợi
ích hợp pháp của Nhà nước, người sản xuất, phân phối và người tiêu dùng. Đẩy
mạnh xuất khẩu, khai thác hiệu quả các hiệp định
thương mại tự do, mở rộng và đa dạng hoá thị trường xuất, nhập khẩu,
không để phụ thuộc quá lớn vào một thị trường, bảo đảm cân bằng cán cân xuất,
nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Có chính sách thương mại phù hợp với hội nhập
quốc tế; nghiên cứu các biện pháp phòng vệ thích hợp để bảo vệ sản xuất và lợi
ích người tiêu dùng, không trái với các cam kết quốc tế. Đẩy mạnh cơ cấu lại
ngành du lịch, bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiện đại và phát triển đồng bộ, bền
vững và hội nhập quốc tế; chú trọng liên kết giữa ngành du lịch với các ngành,
lĩnh vực khác trong chuỗi giá trị hình thành nên các sản phẩm du lịch để du
lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Xây dựng, phát triển và định vị
thương hiệu du lịch quốc gia gắn với hình ảnh chủ đạo, độc đáo, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Đến năm
2030, khách du lịch quốc tế đến Việt
Nam đạt 47 - 50 triệu lượt, du lịch đóng góp khoảng 14 - 15% GDP và nâng
tỉ trọng khu vực dịch vụ trong GDP lên trên 50%.
5. Phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế
vùng, kinh tế biển, lấy các đô thị làm động lực phát triển vùng và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới
Phát triển kết cấu
hạ tầng: Tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với
một số công trình hiện đại. Tập trung đầu tư các dự án hạ tầng trọng điểm quốc
gia, nhất là về giao thông, năng lượng và hạ tầng số để khắc phục cơ bản những
điểm nghẽn cho phát triển, tăng cường kết nối với khu vực và thế giới. Tập trung phát triển mạng
lưới đường bộ cao tốc, đầu tư, nâng cấp các cảng hàng không, đặc biệt là cảng
hàng không trọng điểm. Đến năm 2030, phấn đấu cả nước có khoảng 5.000 km đường
bộ cao tốc, trong đó đến năm 2025 hoàn thành đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía
Đông. Xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành và mở rộng Cảng hàng không
quốc tế Nội Bài. Đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống cảng biển. Triển khai
xây dựng một số đoạn đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam. Kết nối đồng bộ hệ thống
giao thông với các khu kinh tế, khu công nghiệp, cảng hàng không, cảng biển. Đẩy
nhanh tiến độ xây dựng các tuyến đường sắt đô thị tại Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh, giải quyết các điểm nghẽn về hạ tầng giao thông. Tăng cường năng lực
hệ thống hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là đồng bằng sông Cửu Long
và chống ngập úng ở Thành phố Hồ Chí Minh. Hoàn thành xây dựng và nâng cấp các
công trình thuỷ lợi, hồ chứa nước trọng yếu ở vùng Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và đồng
bằng sông Cửu Long, bảo đảm an ninh nguồn nước phục vụ sản xuất và đời sống
nhân dân. Bảo đảm an ninh năng lượng đáp ứng yêu cầu phát triển, thúc đẩy phát
triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch. Phát triển đồng bộ, hiện đại hạ tầng văn hoá, xã hội. Xây
dựng hạ tầng số và hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, bảo đảm hạ tầng kỹ thuật an toàn, an
ninh thông tin.
Phát triển kinh tế
vùng: Xây dựng quy hoạch,
tổ chức không gian
lãnh thổ quốc gia một cách hợp lý,
phát huy tốt nhất các lợi thế đặc thù của mỗi vùng, địa phương và tăng cường
tính liên kết nội vùng và liên vùng để tham gia vào các chuỗi giá trị toàn
cầu, tạo không gian phát triển mới. Khai thác tốt hơn
các thế mạnh của các vùng về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên, vị trí địa
chính trị, nguồn nhân lực trong bối cảnh và yêu cầu phát triển mới. Phát triển
tổng thể, mang tính hữu cơ, liên kết chặt chẽ giữa các địa phương trong vùng
thành một thể thống nhất. Tập trung xây dựng quy hoạch vùng mang tính chất
đột phá theo hướng tích hợp, đa ngành, hình thành chuỗi giá trị và triển khai
thực hiện hiệu quả, lấy quy hoạch làm cơ sở quản lý phát triển vùng. Xây dựng
cơ chế, chính sách đặc thù thúc đẩy phát triển vùng, liên kết vùng và thể chế
điều phối phát triển kinh tế vùng đủ mạnh. Nâng cao hiệu quả hoạt động và đổi
mới cơ chế quản lý, mô hình phát triển của các khu công nghệ cao, khu kinh tế,
khu công nghiệp, khu du lịch gắn với đô thị hoá trở thành động lực phát triển
vùng. Tập trung xây dựng các hành lang kinh tế trọng điểm, thúc đẩy liên kết,
hội nhập quốc tế và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Xây dựng
trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm trí tuệ nhân tạo tại các vùng trọng điểm.
Lựa chọn một số địa điểm, đô thị, vùng có lợi thế đặc biệt để xây dựng trung
tâm kinh tế, tài chính với thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù có tính
đột phá, có khả năng cạnh tranh quốc tế cao. Phát triển hệ thống đô thị trung
tâm phù hợp với chức năng của từng vùng. Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá các
dân tộc, giá trị lịch sử,
truyền thống. Xây dựng cơ chế,
chính sách đặc thù chăm lo giáo dục, đào tạo, y tế, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực; tạo sinh kế, việc làm, định canh, định cư vững chắc cho đồng bào dân
tộc thiểu số, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Triển
khai các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn.
Vùng trung du và miền núi phía Bắc: Phát huy các lợi thế về tài nguyên rừng, khoáng sản, các
cửa khẩu, văn hoá dân tộc đặc sắc, đa dạng và tiềm năng phát triển du lịch,
dịch vụ... Tập trung bảo vệ, khôi phục rừng, nhất là rừng đầu nguồn. Đẩy mạnh
trồng rừng, phát triển lâm nghiệp bền vững, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây đặc sản, cây dược liệu, chăn
nuôi gia súc gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Phát triển hiệu quả các cơ sở khai thác gắn với chế
biến sâu các loại khoáng sản. Chú trọng bảo vệ môi trường sinh thái; bảo vệ
và sử dụng có hiệu quả nguồn nước các hồ, đập để điều tiết nước sản xuất và sinh
hoạt. Tăng cường liên kết nội vùng và với vùng đồng bằng Sông Hồng, Thủ đô Hà
Nội.
Vùng đồng bằng Sông Hồng: Đi đầu trong phát triển
khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số. Xây dựng Thủ đô
Hà Nội trở thành đô thị thông minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp, an ninh, an
toàn. Tập trung phát triển một số ngành sản
xuất và dịch vụ hiện đại: Điện tử, sản xuất phần mềm, trí tuệ nhân tạo, sản xuất ô tô, công nghiệp phụ trợ, các dịch vụ thương mại,
logistics, ngân hàng, tài chính, du lịch, viễn thông, y tế chuyên sâu. Mở rộng phát triển nông nghiệp công
nghệ cao, nông nghiệp sạch. Thúc đẩy mạnh mẽ các trung tâm đổi mới sáng tạo. Tập trung xây dựng các trung tâm đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao. Đẩy mạnh đô thị hoá gắn với phát triển đồng bộ hệ thống hạ
tầng và nâng cao hiệu quả
kinh tế đô thị, kết nối đô thị. Tiếp tục xây dựng khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh trở thành trung tâm kinh tế biển, là cửa ngõ của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ gắn
với cảng quốc tế Lạch Huyện.
Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung: Cơ cấu lại nông, lâm nghiệp, khai thác, nuôi trồng thuỷ, hải sản gắn với công nghiệp chế biến, bảo đảm bền vững và hiệu quả cao. Nâng
cao hiệu quả phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp lọc hoá dầu, luyện kim, sản xuất, lắp ráp ô
tô. Tập trung phát triển mạnh kinh tế biển kết hợp với bảo đảm quốc phòng - an
ninh trên biển, nhất là đánh bắt và nuôi trồng
hải sản xa bờ. Phát triển nhanh,
đồng bộ năng lượng sạch, năng lượng tái tạo. Tăng cường liên kết vùng, tiếp tục
hình thành, phát triển hệ thống đô thị ven biển, các trung tâm du lịch biển, du lịch
sinh thái mang tầm khu vực và
quốc tế. Phát huy hiệu quả các hành lang kinh tế Đông - Tây; phát triển các cảng biển và dịch vụ cảng biển, hạ tầng
và các trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá. Nâng cao năng lực phòng,
chống, giảm thiểu thiệt hại của thiên tai, bão lũ, hạn hán; chủ động ứng phó hiệu quả
với biến đổi khí hậu, chống sa mạc hoá, sạt lở bờ sông, bờ
biển.
Vùng Tây
Nguyên: Nâng cao hiệu quả các diện tích cây công nghiệp,
cây dược liệu, hình thành các chuỗi liên kết trong sản
xuất, chế biến, bảo quản và phân phối, xây dựng thương hiệu sản phẩm trên thị trường quốc tế. Chú trọng khôi phục và phát triển kinh tế rừng. Phát triển năng lượng
tái tạo. Phát triển các trung tâm du lịch lớn, hình thành các
tuyến du lịch chuyên đề đặc thù vùng Tây Nguyên. Phát triển nguồn nhân
lực, ổn định dân cư, ưu tiên bảo tồn và khôi phục các giá trị truyền thống, bản
sắc của các dân tộc vùng Tây Nguyên. Nâng cấp các tuyến giao thông kết nối các tỉnh Tây Nguyên với các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ và với Nam
Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia. Bảo vệ vững chắc an
ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trong mọi
tình huống.
Vùng Đông Nam Bộ: Phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, nâng cao khả năng kết nối hạ tầng vùng, tạo động lực liên kết,
lan toả thúc đẩy hợp tác và phát triển với đồng bằng sông Cửu Long qua các hành lang N1, N2,
cao tốc Bắc - Nam, Quốc lộ 50; với Tây Nguyên qua cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh
- Đà Lạt; với Nam Trung Bộ qua cao tốc Bắc - Nam và Quốc lộ 55. Phát triển khoa học,
công nghệ và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo,
đi đầu trong xây dựng kinh tế số, xã hội số; sản
xuất, lắp ráp các sản phẩm điện,
điện tử, công nghiệp chế biến, chế tạo; tài chính ngân hàng, bất động sản. Phát triển chuỗi công nghiệp - đô thị Mộc Bài - Thành phố Hồ Chí
Minh - Cảng Cái Mép - Thị Vải gắn với hành lang kinh tế xuyên Á. Thúc
đẩy phát triển Thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm tài chính quốc tế. Tập trung phát triển cảng biển container Cái Mép - Thị Vải thực sự
trở thành cảng trung chuyển quốc tế.
Nghiên cứu xây dựng thành phố sân bay cửa ngõ quốc tế Long Thành.
Vùng đồng
bằng sông Cửu Long: Tập trung vào sản xuất nông nghiệp hàng hoá, hiện đại,
quy mô lớn; nông nghiệp hữu cơ; nông nghiệp hiệu quả cao, tối ưu hoá về giá trị
nông nghiệp; phát triển công nghệ về giống; công nghiệp chế biến, bảo quản nông
sản, thuỷ sản; gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ và xây dựng thương hiệu sản phẩm. Đẩy
nhanh tốc độ đô thị hoá, xây dựng mạng đô thị vùng tạo động lực cho phát triển.
Phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch. Thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh
tế, chủ động thích ứng, thực hiện hiệu quả các dự án ứng phó với biến đổi khí
hậu, nước biển dâng; giải quyết vấn đề sạt lở bờ sông, bờ biển; xây dựng chiến
lược tổng thể bảo vệ và sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công. Tập trung xây dựng phát triển Phú Quốc thành trung tâm
dịch vụ, du lịch sinh thái biển mạnh mang tầm quốc tế; kết nối với các trung
tâm kinh tế lớn trong khu vực và thế giới.
Phát triển kinh tế biển: Phát triển bền vững kinh tế biển phù hợp với các
chuẩn mực quốc tế, kiểm
soát khai thác tài nguyên biển, phục hồi hệ sinh thái biển, gắn liền với bảo
đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo. Hoàn
thiện cơ chế quản lý tổng hợp và thống nhất về biển, nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật trên biển. Ưu tiên phát triển các ngành kinh tế biển, nhất là du
lịch, dịch vụ biển, kinh tế hàng hải, khai thác dầu khí và các tài nguyên
khoáng sản biển khác, nuôi trồng và khai thác hải sản xa bờ, công nghiệp ven
biển, năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới. Tập trung xây dựng và
nhân rộng các mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái ven biển gắn với
hình thành phát triển đô thị và phát triển các trung tâm kinh tế biển mạnh.
Tăng cường bảo vệ các hệ sinh thái, đa dạng sinh học biển; nâng cao hiệu quả
khai thác tài nguyên biển. Thiết lập bộ cơ sở dữ liệu số về biển, đảo, bảo đảm
tính tích hợp, chia sẻ và cập nhật. Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên
tai, động đất, sóng thần, quan trắc, giám sát môi trường biển, biến đổi khí
hậu, nước biển dâng. Có biện pháp phòng, tránh, ngăn chặn, hạn chế tác động của
triều cường, xâm nhập mặn, xói lở bờ biển. Ngăn ngừa,
kiểm soát và giảm đáng kể ô nhiễm môi trường biển; tiên phong trong khu vực về
giảm thiểu chất thải nhựa đại dương. Phấn đấu đến năm 2030, quy mô kinh tế
của 28 tỉnh, thành phố ven biển bằng 65 - 70% GDP cả nước. Các đảo có người dân
sinh sống có hạ tầng kinh tế, xã hội cơ bản đầy đủ, nhất là điện, nước ngọt,
thông tin liên lạc, y tế, giáo dục.
Phát triển đô thị:
Đẩy nhanh tốc độ, nâng cao chất lượng đô thị hoá và kinh tế đô thị. Xây
dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển hệ thống đô thị hài hoà, phù hợp
với tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương; phát triển mạnh các đô
thị vệ tinh của một số đô thị lớn, nhất là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Cơ
bản hoàn thành hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách, công cụ quản lý, xây dựng
mô hình chính quyền đô thị gắn với quản trị đô thị hiệu quả, nâng cao năng lực
cạnh tranh, từng bước nâng cao chất lượng phát triển đô thị cả về kinh tế, xã
hội, kết cấu hạ tầng, kiến trúc, nhà ở, chất lượng sống của người dân. Đổi mới
và nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị; phát triển đô thị có tầm nhìn dài hạn;
hình thành một số chuỗi đô thị thông minh tại các khu vực kinh tế trọng điểm
phía Bắc, phía Nam và miền Trung; từng bước kết nối với mạng đô thị thông minh
trong khu vực và thế giới; xây dựng các đô thị theo hướng đô thị xanh, văn
minh, có bản sắc và có tính tiên phong, dẫn
dắt các hoạt động đổi mới sáng tạo, trở thành động lực của phát triển. Cơ bản
hoàn thành xây dựng hệ thống hạ tầng khung của các đô thị trung tâm cả nước và các vùng đồng bộ, hiện
đại, đủ năng lực phục vụ và các công trình giao thông kết nối các đô
thị. Tăng tính kết nối giữa các đô thị trong nước và khu vực; gắn kết phát
triển đô thị và nông thôn. Xây dựng cơ chế minh bạch đánh giá giá trị đất đai,
bất động sản theo cơ chế thị trường. Giải quyết cơ bản yêu cầu về nhà ở cho cư
dân đô thị, mở rộng các loại hình nhà ở; có
chính sách hỗ trợ đẩy mạnh phát triển
nhà ở xã hội. Đến năm 2030, phấn đấu đạt 30 m2 sàn nhà ở bình
quân đầu người.
Xây dựng
nông thôn mới: Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới theo hướng gắn với đô thị hoá, thực chất, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững, lấy cư dân
nông thôn làm chủ thể, đem lại sự chuyển biến tích cực rõ nét hơn về nếp sống
tới từng thôn, bản, ấp, hộ gia đình và cuộc sống trực tiếp của mỗi người dân
sinh sống ở nông thôn. Thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới
kiểu mẫu và xây dựng nông thôn mới cấp thôn, bản. Tập trung xây dựng hệ thống
kết cấu hạ tầng, kết nối chặt chẽ xây dựng nông thôn mới với quá trình đô thị
hoá. Thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông thôn để xây dựng
liên kết theo chuỗi giá trị; đẩy mạnh thực hiện Chương trình "mỗi xã một
sản phẩm" gắn với xây dựng thương hiệu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
tiêu thụ sản phẩm. Tập trung xử lý ô nhiễm môi trường, nhất là rác thải, nước
thải. Tích hợp một số chương trình đầu tư đang triển khai trên địa bàn nông
thôn vào Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Phấn đấu đến
năm 2030, 90% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, 40% đơn vị cấp huyện hoàn thành xây
dựng nông thôn mới.
6. Phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
Phát triển toàn
diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hoá, bảo đảm vừa phát huy những giá trị tốt đẹp
của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại tạo động lực phát
triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Xây dựng môi trường văn hoá một cách toàn diện ở gia đình, nhà trường, cộng đồng dân cư, trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn
thể, doanh nghiệp để văn hoá thực sự là động lực, đột phá phát triển kinh tế,
xã hội, hội nhập quốc tế. Khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tự hào
dân tộc, tính cộng đồng và khát vọng vươn lên. Đề cao tính tiên phong, gương
mẫu trong văn hoá ứng xử của người lãnh đạo các cơ quan, đơn vị, cán bộ, công
chức và đảng viên. Khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân
được phát huy các năng lực tự do sáng tạo trong đời sống kinh tế, xã hội.
Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây
dựng môi trường văn hoá, con người giàu lòng nhân ái, khoan dung, chân thành,
tín nghĩa, trọng đạo lý, đức tính cần cù, chăm chỉ, tiết kiệm, sáng tạo, hiện
đại. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Quan tâm đầu
tư đúng mức để phát triển văn hoá, từng bước thu hẹp khoảng cách
về hưởng thụ văn hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền và các
giai tầng xã hội. Bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá tốt đẹp của các dân tộc và
di sản văn hoá. Từng bước hạn chế, tiến tới xoá bỏ các hủ tục, tập quán lạc
hậu. Hình thành thị trường sản phẩm dịch vụ văn hoá, thông tin
lành mạnh góp phần làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền chủ trương, đường
lối của Đảng, Nhà nước, xu hướng phát triển xã hội, đấu tranh, lên án các hành
vi vi phạm pháp luật, đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục góp phần xây dựng xã
hội an ninh, an toàn, dân chủ, tiến bộ.
Nâng cao vai trò của
văn hoá, nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách của con người Việt
Nam, nhất là trong thế hệ trẻ. Bảo đảm quyền hưởng thụ, tự do sáng tạo trong
hoạt động văn hoá, nghệ thuật của mỗi người dân và cộng đồng. Hoàn thiện các cơ
chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hoá; phát triển những sản phẩm, loại
hình văn hoá độc đáo có sức lan toả để quảng bá, giới thiệu ra thế giới.
Phấn đấu sớm hoàn
thành các mục tiêu theo Chương trình nghị sự 2030 vì phát triển bền vững. Phát
triển vì con người, tạo điều kiện cho mọi người, nhất là trẻ em, nhóm yếu thế,
đồng bào dân tộc thiểu số, người di cư hoà nhập, tiếp cận bình đẳng nguồn lực,
cơ hội phát triển và hưởng thụ công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản. Tiếp tục
hoàn thiện và thực hiện các chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, cùng phát
triển. Quan tâm phát triển vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; tổ chức thực hiện hiệu quả Chương
trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030.
Đẩy nhanh xây dựng xã hội số, tập trung vào chuyển đổi kỹ năng, mở các khoá
học đại trà trực tuyến, đào tạo, tập huấn, nâng cao kiến thức, kỹ năng về công
nghệ số và chuyển đổi số. Chuẩn bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số để phát triển
xã hội số.
Triển khai đồng bộ
các giải pháp giảm nghèo đa chiều, bền vững, bao trùm, nhất là khu vực đồng bào
dân tộc thiểu số. Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo
và an sinh xã hội bền vững. Đổi mới thực chất cách tiếp cận trong giảm nghèo
bằng các chính sách hỗ trợ có điều kiện, giảm hỗ trợ cho không, khơi dậy ý chí
chủ động vươn lên tự thoát nghèo; hạn chế bất bình đẳng xã hội. Khuyến khích
làm giàu theo pháp luật, phát triển mạnh tầng lớp trung lưu gắn với nâng cao
trách nhiệm xã hội. Tập trung giải quyết cơ bản nhu cầu về nhà ở cho người dân,
bổ sung cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển mạnh mẽ nhà ở xã hội; bố trí hợp
lý khu dân cư và hỗ trợ phát triển nhà ở cho người dân tại các vùng thường
xuyên chịu tác động của thiên tai, biến đổi khí hậu.
Đẩy mạnh phát triển sự nghiệp thể dục, thể thao, nâng cao sức khoẻ cho
người dân cả về thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ cũng như chất lượng cuộc
sống. Chăm lo phát triển về chất lượng, quy mô,
cơ cấu dân số; duy trì vững chắc mức sinh thay thế, đưa tỉ số giới tính
khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế
hoạch hoá gia đình sang dân số và phát triển; tận dụng hiệu quả các cơ hội từ cơ cấu dân số vàng, thích ứng với quá trình già hoá dân số, đẩy mạnh chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi. Bảo vệ và phát triển dân số các dân tộc thiểu
số có dưới 10 nghìn người, đặc biệt là những dân tộc thiểu số có nguy cơ suy giảm
giống nòi. Thúc đẩy phân bố dân số hợp lý và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Hoàn
thành xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, bảo đảm 100% dân
số được đăng ký và quản lý.
Đổi
mới cơ chế quản lý, xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu quả và
hội nhập quốc tế, thực hiện bao phủ chăm sóc sức khoẻ toàn dân, tổ chức cung cấp
dịch vụ y tế công, bảo đảm các dịch vụ cơ bản, phấn
đấu trên 95% dân số được quản lý, theo dõi và chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ. Chú
trọng công tác dự phòng, sàng lọc và phát hiện sớm, chữa trị kịp thời. Tập
trung phát triển mạnh y tế cơ sở và y tế dự phòng. Tiếp tục sắp xếp các trung tâm, đơn vị làm nhiệm vụ y tế dự phòng cấp tỉnh
và Trung ương, hình thành hệ thống trung tâm kiểm soát dịch bệnh đồng bộ ở tất
cả các cấp và kết nối với mạng lưới kiểm soát bệnh tật thế giới. Tăng cường
nghiên cứu, ứng dụng khoa học y học, phát triển các ngành khoa học phục vụ bảo
vệ, chăm sóc sức khoẻ con người. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật,
công nghệ thông tin, công nghệ số trong
khám, chữa bệnh, liên thông công nhận kết quả khám, xét nghiệm, triển khai hồ
sơ sức khoẻ điện tử toàn dân; khắc phục tình
trạng quá tải bệnh viện. Phấn đấu đạt 32 giường bệnh và 11 bác sĩ trên 1 vạn
dân. Tập trung phát triển một số trung tâm y tế chuyên sâu, xây dựng một số cơ
sở khám, chữa bệnh có tầm cỡ khu vực và quốc tế. Đào tạo, nâng cao năng
lực và tổ chức quản trị chuyên nghiệp các cơ sở y tế. Khuyến khích
phương thức đối tác công - tư, đầu tư tư nhân, cung cấp các dịch vụ khám, chữa
bệnh theo yêu cầu; phát triển mô hình bác sĩ gia đình. Thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, phấn đấu tỉ lệ tham gia bảo hiểm
y tế trên 95% dân số, đa dạng mức đóng và mức
hưởng. Phát triển y học cổ truyền
gắn với y học hiện đại. Phát triển dược liệu, công nghiệp dược và thiết bị y
tế; nâng cao năng lực nghiên cứu, chủ động sản xuất vắc-xin, thuốc sáng chế.
Nâng cao chất lượng
công tác dự báo, giám sát, phát hiện, khống chế, ngăn chặn hiệu quả, không để
dịch bệnh lớn xảy ra, ứng phó kịp thời các vấn đề khẩn cấp, sự cố môi trường,
bảo đảm an ninh y tế. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế và phương thức hoạt động của y tế
xã, phường, thị trấn bảo đảm thực hiện đúng vai trò là tuyến đầu trong phòng
bệnh, chăm sóc sức khoẻ của người dân trên địa bàn. Phòng ngừa và kiểm soát lây
nhiễm HIV, tiến tới chấm dứt bệnh dịch AIDS trước năm 2030.
Cải cách tổng thể,
hệ thống, đồng bộ chính sách tiền lương theo hướng tuân thủ nguyên tắc phân
phối theo lao động và quy luật khách quan của kinh tế thị trường, lấy tăng năng
suất lao động là cơ sở để tăng lương. Thực hiện trả lương cho cán bộ, công
chức, viên chức và lực lượng vũ trang theo vị trí việc làm, chức danh và chức
vụ lãnh đạo. Điều chỉnh quan hệ phân phối thu nhập; tiếp tục hoàn thiện chính
sách tiền lương, tiền công trong khu vực doanh nghiệp theo hướng Nhà nước quy
định tiền lương tối thiểu, đồng thời tăng cường cơ chế thương lượng, thoả thuận
tiền lương theo nguyên tắc thị trường. Xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn
định, tiến bộ.
Đổi mới phương pháp
tiếp cận trong xây dựng và thực hiện pháp luật, chính sách lao động, việc làm
bám sát với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và xu hướng của
thời đại; gắn trực tiếp các mục tiêu, chỉ tiêu về lao động, việc làm với mục
tiêu phát triển kinh tế.
Tạo môi trường và
điều kiện để phát triển thị trường lao động đồng bộ, hiện đại, thống nhất, có
sự quản lý, kiểm soát, điều tiết của Nhà nước; tập trung hoàn thiện và nâng cao
chất lượng hệ thống thông tin dự báo thị trường
lao động và chất lượng dịch vụ việc làm. Liên thông thị trường lao động
cả về quy mô, chất lượng lao động và cơ cấu ngành nghề; có cơ chế, chính sách
để định hướng dịch chuyển lao động thông thoáng, phân bố hợp lý lao động theo
vùng. Nâng cao chất lượng của lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài.
Thực hiện tốt chính sách
người có công; đẩy mạnh các hoạt động đền ơn đáp nghĩa. Tiếp tục cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần cho người có công; bảo đảm chế độ ưu đãi người và gia
đình người có công phù hợp với xu hướng tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công
bằng xã hội.
Tiếp tục thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, nhất là cho những người yếu thế, người nghèo. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội, tiến tới thực hiện bảo
hiểm xã hội toàn dân. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng,
đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế; kết hợp hài hoà nguyên tắc đóng - hưởng;
công bằng, bình đẳng; chia sẻ và bền vững. Đổi mới cách tiếp cận, tăng cường
phối hợp, lồng ghép, ưu tiên nguồn lực, đẩy mạnh xã hội hoá. Tiếp tục hiện đại
hoá quản lý bảo hiểm xã hội theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả. Phấn
đấu đến năm 2030 có 60% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Phát triển
và đa dạng hoá các dịch vụ trợ giúp xã hội chuyên nghiệp. Thực hiện đồng bộ và toàn diện các giải pháp phát triển thanh niên, bình
đẳng giới vì sự tiến bộ của phụ nữ. Giảm dần khoảng cách giới trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Thực hiện đầy đủ quyền trẻ em,
tạo môi trường lành mạnh, thuận lợi để trẻ em được phát triển toàn diện về thể
chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và mối quan hệ xã hội. Tăng cường giáo dục
kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em, kiểm soát tình hình tai nạn, bạo lực trẻ em.
Đến năm 2030, giảm tỉ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi xuống còn 15‰, dưới 1
tuổi xuống còn 10‰. Bảo vệ, chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi; khuyến
khích người cao tuổi tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội; tích cực, chủ động
xây dựng môi trường thân thiện với người cao tuổi; bảo đảm 100% người cao tuổi
có thẻ bảo hiểm y tế, được quản lý sức khoẻ, khám, chữa bệnh, chăm sóc tại gia
đình, cộng đồng, cơ sở chăm sóc tập trung.
Thực hiện tốt mục
tiêu đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của mọi người theo quy định của pháp luật. Phát huy giá trị
văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo vào giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền
thống xã hội, xây dựng đời sống văn hoá ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn
các tệ nạn xã hội.
Bảo đảm công khai,
minh bạch thông tin và bảo đảm quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông
tin của nhân dân, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số. Nâng cao chất lượng, bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống thông tin, báo chí,
Internet, xuất bản; tăng cường năng lực quản lý không gian mạng. Thực hiện đồng
bộ các giải pháp phòng, chống tệ nạn xã hội; kiểm soát ma tuý, mại dâm; hỗ trợ
người sau cai nghiện ma tuý, mại dâm và nạn nhân bị buôn bán người trở về hoà
nhập cộng đồng. Xây dựng các cơ quan báo chí, tổ hợp truyền thông chủ lực đủ
mạnh để thực hiện tốt chức năng thông tin tuyên truyền thiết yếu, làm chủ mặt
trận thông tin. Tăng cường thông tin đối ngoại. Phấn đấu đến năm 2030, mạng di
động 5G phủ sóng toàn quốc, mọi người dân được truy cập Internet băng thông
rộng cáp quang với chi phí thấp, tỉ lệ dân số
có tài khoản thanh toán điện tử trên 80%.
7. Quản lý và sử dụng hiệu quả tài
nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng,
chống và giảm nhẹ thiên tai
Quản lý chặt chẽ và
nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài nguyên, nhất là đất, nước, khoáng
sản, theo nguyên tắc thị trường. Đẩy nhanh hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ
chế, chính sách bảo đảm đồng bộ, minh bạch các yếu tố thị trường để có khả năng
vốn hoá các nguồn lực tài nguyên, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả. Phát
triển thị trường, đẩy mạnh thương mại hoá quyền sử dụng đất, tăng cường
đăng ký quyền sử dụng đất và áp dụng định giá đất theo thị trường bảo đảm công
khai, minh bạch. Bảo đảm an ninh và ngăn chặn suy giảm tài nguyên nước; tăng
cường tích nước, điều tiết, quản lý, khai thác, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nguồn
nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Đẩy mạnh hợp tác
với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử
dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất
là sông Mê Công và Sông Hồng. Phấn đấu đạt được các chỉ tiêu về sử dụng hiệu
quả tài nguyên, tái sử dụng, tái chế chất thải tương đương với các nước dẫn đầu
trong khối ASEAN.
Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa phát triển
kinh tế với bảo vệ môi trường. Thực hiện nghiêm và nâng cao chất lượng đánh giá
tác động môi trường, môi trường chiến lược. Kiểm soát an toàn, xử lý dứt điểm ô
nhiễm môi trường do hậu quả chiến tranh. Tăng cường giám sát, công khai đầy đủ,
kịp thời thông tin và nâng cao chất lượng môi trường không khí ở các đô thị,
khu vực đông dân cư. Cải thiện rõ rệt tình trạng ô nhiễm môi trường ở các cụm
công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông, khu vực nông thôn.
Phòng ngừa, kiểm
soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường. Xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng. Kiểm soát tốt các tác động đến môi trường của các dự án
khai thác tài nguyên, chủ động phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm gây ô
nhiễm môi trường (đặc biệt quan tâm đến những dự án lớn, công nghệ phức tạp và
có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao). Ngăn chặn suy thoái, tối ưu hoá các mục
đích sử dụng đất nông nghiệp. Bảo vệ, phát triển và tăng độ che phủ rừng, nhất
là rừng đầu nguồn, các khu bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học. Đến năm 2030,
diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên trên cạn đạt 3 triệu ha. Tăng cường và
thực thi nghiêm chế tài xử phạt vi phạm về môi trường. Thực hiện nguyên tắc đối
tượng gây ô nhiễm môi trường phải trả chi phí để xử lý, khắc phục hậu quả, cải
tạo và phục hồi môi trường; đối tượng được hưởng lợi từ tài nguyên, môi trường
phải có nghĩa vụ đóng góp để đầu tư trở lại cho bảo vệ môi trường.
Chủ động giám sát,
ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế xanh, ít chất
thải, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, các-bon thấp; khuyến khích phát triển mô
hình kinh tế tuần hoàn để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản
xuất. Nâng cao tính chống chịu và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của
hệ thống kết cấu hạ tầng và của nền kinh tế; thực hiện các giải pháp thông minh
để thích ứng trong nông nghiệp, thuỷ sản và phát triển rừng. Giảm thiểu những
rủi ro do biến đổi khí hậu gây ra, nhất là khô hạn tại Tây Nguyên, Nam Trung
Bộ, xâm nhập mặn, sạt lở tại đồng bằng sông Cửu Long.
Đến năm 2030, cơ bản
đạt các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) về tài nguyên, môi trường và ứng
phó với biến đổi khí hậu. Tỉ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được
xử lý đạt 100%; tỉ lệ chất thải nguy hại được tiêu huỷ, xử lý đạt 98%, trong đó
riêng tỉ lệ chất thải y tế được xử lý đạt 100%; tỉ lệ khu công nghiệp, khu chế
xuất đã đi vào hoạt động có nhà máy xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn
môi trường đạt 100%; tỉ lệ tái sử dụng, tái chế chất thải rắn sinh hoạt đạt
trên 65%.
8. Củng cố, tăng cường quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc
gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia
Củng cố, tăng cường
thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc; tiếp
tục xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hoá một số quân chủng, binh chủng,
lực lượng: Hải quân, phòng không - không quân, tác chiến điện tử, trinh sát kỹ
thuật, cảnh sát biển, tình báo, cơ yếu, an ninh, cảnh sát cơ động, kỹ thuật
nghiệp vụ, an ninh mạng và đấu tranh phòng, chống tội phạm công nghệ cao…; vững
mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, tuyệt
đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong mọi tình huống. Tích cực, chủ động xây dựng kế hoạch, phương án
tác chiến, nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững ổn định chính trị, an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, giữ vững
chủ quyền số quốc gia trên không gian mạng trong mọi tình huống. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu,
chất lượng tổng hợp ngày càng cao; xây dựng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng
khắp, coi trọng lực lượng dân quân tự vệ biển và dân quân tự vệ ở các địa
phương trọng điểm.
Kết hợp chặt chẽ
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh
trên từng vùng lãnh thổ, trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo, khu
kinh tế trọng điểm. Thực hiện chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế biển và vùng ven biển gắn với bảo đảm quốc
phòng, an ninh, tăng cường xây dựng các khu kinh tế biển, xây dựng các
chương trình hỗ trợ ngư dân bám biển, đánh bắt xa bờ, tạo điều kiện cho việc
phòng thủ, bảo vệ, kiểm soát và làm chủ vùng biển. Thực hiện tốt công tác giáo
dục quốc phòng, an ninh, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, hành động của toàn
dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, củng cố quốc phòng, an ninh. Khai thác mọi
nguồn lực, tiềm năng, thế mạnh để xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh gắn với
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Bổ sung nội dung quốc phòng, an ninh trong
quy hoạch các vùng, miền có tầm quan trọng chiến lược đối với quốc phòng, an
ninh. Quy hoạch tổng thể bố trí quốc phòng kết hợp với kinh tế - xã hội. Xây
dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, phòng thủ quân khu thành khu
vực phòng thủ vững chắc, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Điều chỉnh, bổ sung, xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng phù hợp với chiến
lược, đề án về quốc phòng, an ninh, tạo sức mạnh tổng hợp giữ vững ổn định
chính trị - xã hội; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; góp phần gìn giữ môi trường
hoà bình, ổn định cho phát triển đất nước.
Đẩy mạnh phát triển
công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, ngày càng hiện đại,
có trình độ khoa học - công nghệ cao, là bộ phận quan trọng và trở thành mũi
nhọn của công nghiệp quốc gia, chế tạo được một số loại vũ khí có ý nghĩa chiến
lược, từng bước bảo đảm vũ khí, trang bị cho lực lượng vũ trang. Tiếp tục đầu
tư xây dựng cơ sở vật chất, phương tiện, trang bị cho công tác quốc
phòng, an ninh; xây dựng đồng bộ hệ thống tổ chức phòng thủ dân sự, sẵn sàng
ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống,
bảo đảm phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm hoạ và hậu quả chiến
tranh; tăng cường công tác phòng, chống cháy nổ và tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn.
Củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân tộc dựa vào dân, thực hiện tốt công tác vận động quần chúng
tạo nền tảng xây dựng "thế trận lòng dân" gắn với xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc; thiết lập thế trận an
ninh liên hoàn bên trong với bên ngoài biên giới quốc gia và trên không gian
mạng. Thường xuyên cảnh giác, nắm chắc, đánh giá, dự báo sát, đúng tình hình,
nhất là những vấn đề phức tạp nảy sinh; chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng,
Nhà nước có đối sách phù hợp, xử lý kịp thời, có hiệu quả các tình huống. Tích
cực phòng ngừa, chủ động đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và
các loại tội phạm; ngăn chặn âm mưu bạo loạn, khủng bố, phá hoại; giữ vững thế
chủ động chiến lược, bảo đảm an ninh, trật tự, không để bị động, bất ngờ trong
mọi tình huống.
Chủ động đấu tranh
phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển
hoá" trong nội bộ; bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh thông tin truyền
thông, an ninh mạng và an ninh xã hội. Xử lý hài hoà các vấn đề dân tộc, tôn
giáo, bức xúc xã hội, không để xảy ra các "điểm nóng". Kịp thời phát
hiện, chủ động xử lý có hiệu quả các vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự, gây
bức xúc trong dư luận, củng cố niềm tin của nhân dân.
Kịp thời đấu tranh
trấn áp hiệu quả các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, xuyên quốc
gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao, các băng nhóm tội phạm ma tuý, có vũ
trang, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; phấn đấu giảm tai
nạn giao thông trên cả 3 tiêu chí.
Tăng cường hợp tác
quốc tế về quốc phòng, an ninh, thực hiện tốt nhiệm vụ tham gia gìn giữ hoà
bình của Liên hợp quốc. Chủ động phối hợp với các quốc gia bảo vệ lợi ích quốc
gia - dân tộc; xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống, tạo vành đai an ninh
bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Tiếp tục hoàn
thiện chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh phù hợp với hội nhập
quốc tế và yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
9. Nâng cao hiệu quả công tác đối
ngoại, hội nhập và vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
Tiếp tục chủ động, tích cực đẩy mạnh công tác đối ngoại, bảo hộ công dân;
tận dụng tối đa các cơ hội từ quá trình hội nhập mang lại, nhất là các hiệp
định thương mại tự do đã ký kết; chú trọng nâng cao năng lực hội nhập, giải
quyết tranh chấp thương mại và đầu tư quốc tế.
Kiên trì, kiên định
đường lối độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ; nâng cao khả
năng thích ứng năng động và linh hoạt xử lý hài hoà lợi ích quốc gia với quan
tâm chung, tuỳ theo đối tượng, vấn đề, thời điểm, phù hợp với luật pháp quốc tế
và nguyên tắc ứng xử tại khu vực, trên tinh thần lợi ích quốc gia - dân tộc là
trên hết.
Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, gắn chặt việc chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế với tăng cường năng lực thể chế đồng bộ, hiện đại. Đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, kết hợp chặt chẽ với đối
ngoại song phương, thực hiện tốt các trọng trách quốc tế, nhất là trong ASEAN,
Liên hợp quốc và các khuôn khổ hợp tác ở Châu Á - Thái Bình Dương. Duy trì hoà bình, an ninh, an toàn tự do hàng hải, hàng
không ở Biển Đông; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở
luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
Nâng cao mức độ và chất lượng hội nhập quốc tế
để mở rộng thị trường, tranh thủ nguồn vốn, công nghệ, kiến thức và kỹ năng quản
lý; nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm;
thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp trong nước, xác lập vị trí cao hơn
trong chuỗi giá trị toàn cầu; đóng góp tích cực vào quá trình đổi mới mô hình
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, thu hẹp khoảng cách phát triển so với các nước phát triển hơn trong khu vực
và thế giới.
Thực hiện nghiêm các cam kết quốc tế và các hiệp định
thương mại đã ký kết. Nâng cao năng lực hội nhập và mức độ hưởng lợi từ hội nhập,
có đóng góp xứng đáng vào công cuộc phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường
khu vực và thế giới.
Xây dựng nền ngoại
giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm
trung tâm phục vụ. Bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh
nghiệp và người dân Việt Nam trong các tranh chấp kinh tế, thương mại và đầu tư
quốc tế.
Tăng cường và nâng
cao hiệu quả ứng dụng công nghệ truyền thông mới, mạng xã hội trong thông tin
đối ngoại và đấu tranh dư luận.
10. Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng,
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính
Tiếp tục xây dựng,
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành và năng lực kiến tạo phát triển. Xác định rõ vai trò, vị trí, chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước, thực hiện tốt chức
năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với thị
trường. Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả
tổ chức thi hành pháp luật, xây dựng được hệ thống pháp luật thống nhất, đồng
bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận với chi phí tuân thủ
thấp, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người dân là
trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh
tế, xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới.
Nhà nước quản lý,
điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở các quy luật thị
trường. Tăng cường công tác giám sát, chủ động điều tiết, giảm các tác
động tiêu cực của thị trường, không can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị
trường.
Nâng cao năng lực tổ
chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát
triển kinh tế, xã hội. Chú trọng quản lý phát triển xã hội; thực hiện ngày càng
tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, bảo vệ và trợ giúp các đối tượng dễ
bị tổn thương trong nền kinh tế thị trường. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và an
ninh kinh tế. Thực hiện tốt chức năng quản lý, phát triển mạnh nguồn nhân lực
và hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển. Quản lý
và sử dụng hiệu quả tài sản quốc gia, thực hiện tốt chức năng chủ sở hữu đối
với doanh nghiệp nhà nước. Hoàn thiện hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập
theo hướng tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả;
cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu có chất lượng ngày càng cao.
Đẩy mạnh việc chuyển giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị
sự nghiệp công lập. Phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công và thu hút
mạnh mẽ các loại hình kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ công; kiểm soát độc
quyền và bảo vệ người sử dụng.
Tập trung xây dựng
nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch,
quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Thực hiện chương trình tổng
thể cải cách hành chính và hiện đại hoá nền hành chính quốc gia. Hoàn thiện tổ
chức bộ máy chính quyền các cấp. Chính phủ
tập trung vào quản lý vĩ mô, nâng cao chất lượng xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch.
Tăng cường năng lực dự báo và khả năng phản ứng chính sách trong điều
kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh và hoàn thiện cơ chế phân
cấp, phân quyền, uỷ quyền, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả hoạt
động; đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm
của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực. Mở rộng dân chủ đi
đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương.
Xây dựng các thiết
chế tư pháp hiện đại, trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, dân chủ, nghiêm minh, dễ
tiếp cận, bảo vệ pháp luật, công lý, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Tăng
cường năng lực tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp. Phát triển
hoạt động dịch vụ pháp lý và các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài toà án.
Nâng cao hiệu quả và rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp, thi hành án
trong lĩnh vực dân sự, đầu tư, kinh doanh, thương mại và bảo vệ người tiêu dùng.
Xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo dựa trên cơ chế cạnh tranh về tuyển dụng, chế
độ đãi ngộ và đề bạt; có phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh chính trị
vững vàng. Quy định rõ và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; có cơ chế khuyến
khích, khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực và áp lực để
mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao, tận tụy
phục vụ nhân dân; có cơ chế bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,
dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Cải cách cơ bản chế độ tiền
lương của cán bộ, công chức, viên chức. Thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu
quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí. Nâng cao hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, làm tốt chức
năng hỗ trợ, thúc đẩy phát triển. Không hình sự hoá các mối quan hệ kinh tế,
hành chính, dân sự. Phát huy đúng vai trò giám sát, phản biện xã hội, các hình
thức tự quản của cộng đồng, các phương thức hoà giải cấp cơ sở. Tiếp tục phát
huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể
nhân dân và các cơ quan thông tin đại chúng trong việc phát hiện, đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
VI- TỔ CHỨC THỰC
HIỆN
Thực hiện thắng lợi
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030 là nhiệm vụ trọng tâm của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở.
Phải tập trung làm tốt các việc sau đây:
1. Các cấp uỷ đảng, các đảng đoàn, ban cán sự đảng chỉ đạo
quán triệt sâu sắc nội dung Chiến lược trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân,
các cấp, các ngành và tăng cường sự lãnh đạo, tạo sự thống nhất cả về nhận thức
và hành động trong việc triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược.
2. Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo việc xây dựng, hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật và giám sát việc thực hiện Chiến lược.
3. Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo xây dựng và tổ chức
thực hiện chương trình hành động, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch bảo đảm
phát huy lợi thế và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước. Chỉ đạo tổ
chức thực hiện có hiệu quả các đột phá chiến lược, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, hằng năm và các chương trình quốc
gia. Xây dựng cơ chế và đưa vào nền nếp việc thường xuyên theo dõi, kiểm tra,
giám sát, đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược.
4. Trong quá trình tổ chức thực hiện Chiến lược, khi xuất
hiện những vấn đề cần đổi mới mà chưa có chủ trương, Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị quyết định việc thực hiện thí điểm.
5. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; xây dựng
cơ chế để phát huy vai trò của nhân dân trong việc thực hiện và giám sát thực
hiện Chiến lược.
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
Chiến lược lần thứ nhất 1991 -
2000, tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,56%, trong đó năm cao nhất là 9,5% (năm
1995). Chiến lược lần thứ hai 2001 - 2010, tăng trưởng bình quân đạt 7,26%,
trong đó năm cao nhất là 8,7% (năm 2005). Chiến lược lần thứ ba 2011 - 2020, tăng trưởng
bình quân ước đạt 5,9%, trong đó giai đoạn 2011 - 2015 đạt 5,9%, giai đoạn 2016 - 2020 đạt 5,9%.