Nhiều chính sách mới áp dụng với viên chức
Ngày 01/7/2020 là thời điểm Luật sửa
đổi, bổ sung Luật Viên chức có hiệu lực kéo theo nhiều chính sách mới dành cho viên chức
cũng chính thức được áp dụng. Dưới đây là tổng hợp 07 điểm nổi bật nhất của
Luật này đối với viên chức.
1/ Chỉ còn 3 trường hợp viên chức được hưởng “biên chế”
Theo quy định tại Điều 25
Luật Viên chức năm 2010, hiện nay, trúng tuyển viên chức sẽ được thực hiện một trong hai
loại hợp đồng làm việc là không xác định thời hạn và xác định thời hạn. Tuy
nhiên, từ 01/7/2020, khoản 2 Điều 2 Luật sửa đổi Luật Viên chức 2010 đã điều
chỉnh nhiều quy định về đối tượng thực hiện hai loại hợp đồng này gồm:
STT
|
Hiện nay
|
Từ 01/7/2020
|
1
|
Hợp đồng làm việc
xác định thời hạn
|
Đối tượng
|
Người được tuyển dụng làm
viên chức trừ:
- Cán bộ, công chức chuyển
sang làm viên chức khi đáp ứng điều kiện;
- Công chức trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý đơn vị sự nghiệp chuyển sang viên chức khi hết thời hạn bổ
nhiệm mà không được bổ nhiệm lại.
|
Người được tuyển dụng làm
viên chức kể từ ngày 01/7/2020 trừ:
- Cán bộ, công chức chuyển
sang làm viên chức khi đáp ứng điều kiện;
- Người được tuyển dụng
vào viên chức làm việc tại vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó
khăn.
|
2
|
Hợp đồng làm việc
không xác định thời hạn
|
Đối tượng
|
- Người thực hiện xong hợp
đồng làm việc xác định thời hạn;
- Cán bộ, công chức chuyển
thành viên chức khi:
·
Đáp ứng
điều kiện theo quy định;
·
Hết thời
hạn bổ nhiệm mà không được bổ nhiệm lại.
|
- Viên chức tuyển dụng
trước 01/7/2020, phải đáp ứng đủ các điều kiện;
- Cán bộ công chức chuyển
sang viên chức khi đáp ứng điều kiện theo quy định;
- Người được tuyển dụng
làm viên chức tại vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn.
|
Như vậy, có thể thấy, từ 01/7/2020, sẽ chỉ còn 03 trường hợp
được hưởng “biên chế” chứ không phải mọi trường hợp thực hiện xong hợp đồng làm
việc xác định thời hạn như quy định hiện nay.
2/ Kéo dài thời hạn
hợp đồng làm việc lên 60 tháng
Về thời hạn thực hiện hai loại hợp đồng làm việc của viên chức,
Luật này nêu rõ:
- Hợp đồng làm việc xác định thời hạn: Có thời hạn từ đủ 12 - 36 tháng (từ
01/7/2020 thời hạn thực hiện là từ đủ 12 - 60 tháng);
- Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn: Hai bên không xác định thời hạn, thời điểm
chấm dứt hiệu lực hợp đồng.
Như vậy, Luật sửa đổi đã kéo dài thời hạn hợp đồng làm việc xác
định thời hạn lên đến 60 tháng (05 năm) so với 36 tháng như quy định hiện tại
để tạo điều kiện cho viên chức làm quen với công việc được tuyển dụng.
3/ Thêm trường hợp bị đơn phương cắt hợp đồng làm việc
Điều 29 Luật Viên chức hiện nay liệt kê các trường hợp đơn vị sự
nghiệp công lập được đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc với viên chức gồm:
- Bị buộc thôi việc;
- Do thiên thai, hỏa hoạn hoặc vì lý do bất khả kháng khác khiến
đơn vị sự nghiệp công lâp buộc phải thu hẹp quy mô, khiến vị trí việc làm mà
viên chức đang đảm nhiệm không còn;
- Đơn vị sự nghiệp công lập chấm dứt hoạt động theo quyết định của
cơ quan có thẩm quyền;
- Viên chức có 02 năm liên tiếp bị phân loại đánh giá ở mức không
hoàn thành nhiệm vụ…
Luật sửa đổi năm 2019 đã bổ sung thêm 01 trường hợp viên chức bị
đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc là “không đạt yêu cầu sau thời
gian tập sự”.
Hiện nay, quy định này chỉ được đề cập đến trong các văn bản hướng
dẫn mà chưa chính thức được Luật hóa. Do đó, để thống nhất và đồng bộ với các
văn bản khác, từ 01/7/2020, trường hợp viên chức không đạt yêu cầu sau khi tập
sự sẽ bị cắt hợp đồng làm việc đã được đưa vào Luật.
4/ Đánh giá viên chức theo các tiêu chuẩn mới
Một trong những nội dung mới ảnh hưởng đến mọi viên chức từ
01/7/2020 là quy định về đánh giá viên chức. Theo đó, không chỉ nội dung đánh
giá viên chức được sửa đổi bổ sung mà số lần đánh giá hằng năm cũng được tăng
lên. Cụ thể:
* Về nội dung
- Bổ sung thêm nội dung “chấp hành đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, quy định của cơ quan, tổ chức,
đơn vị”;
- Bổ sung thêm tiêu chí đánh giá thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ
theo hợp đồng làm việc đã ký kết, theo kế hoạch đề ra, theo công việc cụ thể
được giao, theo tiến độ, chất lượng thực hiện nhiệm vụ, gắn với vị trí việc
làm, thông qua công việc, sản phẩm cụ thể…
* Về số lần đánh giá
Không chỉ nội dung mà Luật sửa đổi còn tăng thêm số lần thực hiện
đánh giá viên chức. Cụ thể, bổ sung thêm thời điểm đánh giá là khi thay đổi vị
trí việc làm, đánh giá theo quý, tháng hoặc tuần, đảm bảo công khai, dân chủ,
khách quan, định lượng bằng kết quả, sản phẩm cụ thể…
5/ Khi nào viên chức
được hưởng trợ cấp thôi việc?
Điều 45 Luật hiện hành chỉ quy định viên chức được hưởng trợ cấp
thôi việc, trợ cấp mất việc làm hoặc chế độ bảo hiểm thất nghiệp theo quy định
của pháp luật lao động và bảo hiểm xã hội. Quy định các trường hợp cụ thể được
nêu tại Nghị định 29/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung 2018.
Tuy nhiên, khoản 6 Điều 2 Luật sửa đổi 2019 đã nêu rõ từng trường
hợp được hưởng trợ cấp thôi việc gồm:
- Đơn vị sự nghiệp công lập đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc
với viên chức;
- Hết thời hạn của hợp đồng nhưng không ký tiếp hợp đồng làm việc;
- Viên chức đơn phương chấm dứt hợp đồng do không được bố trí đúng
vị trí việc làm, địa điểm làm việc, điều kiện đã thỏa thuận; không được trả
lương đầy đủ, đúng hạn; bị ngược đãi, cưỡng bức lao động; viên chức nữ có thai
phải nghỉ làm theo chỉ định của bác sĩ…
6/ “Siết chặt” quy
định về kỷ luật viên chức
Nhằm phòng chống tham nhũng cũng như nâng cao kỷ luật, kỷ cương khi
thực hiện công vụ, bên cạnh việc khen thưởng thì tùy vào tính chất, mức độ vi
phạm, viên chức còn có thể bị xem xét xử lý kỷ luật.
Điều 53 Luật Viên chức hiện hành nêu rõ, kể từ thời điểm có hành vi
vi phạm, thời hiệu kỷ luật viên chức là 24 tháng; kể từ khi phát hiện vi phạm,
thời hạn kỷ luật viên chức là không quá 02 tháng, nếu có tình tiết phức tạp thì
thời hạn kỷ luật không quá 04 tháng.
Trong đó, thời hiệu kỷ luật là thời hạn mà hết thời hạn đó viên
chức có hành vi vi phạm không bị xem xét kỷ luật; Thời hạn kỷ luật là khoảng
thời gian từ khi phát hiện vi phạm đến khi có quyết định xử lý kỷ luật.
Có thể thấy, thực tế có nhiều trường hợp, hành vi vi phạm tinh vi,
vô cùng phức tạp, thời hạn và thời hiệu kỷ luật nêu trên còn quá ngắn, khiến
việc xử lý còn gặp nhiều khó khăn.
Căn cứ vào thực tiễn này, Luật sửa đổi đã kéo dài thời hiệu cũng
như thời hạn xem xét kỷ luật. Cụ thể, khoản 7 Điều 2 Luật sửa đổi nêu rõ:
- Thời hiệu kỷ luật: 02 năm với trường hợp vi phạm đến mức bị kỷ luật khiển trách; 05
năm với các trường hợp còn lại;
- Thời hạn kỷ luật: Không quá 90 ngày. Nếu phức tạp thì có thể kéo dài nhưng
không quá 150 ngày.
Đồng thời, Luật sửa đổi còn bổ sung thêm trường hợp không áp dụng
thời hiệu kỷ luật nghĩa là viên chức vi phạm các hành vi sau đây sẽ bị kỷ luật
“bất cứ lúc nào”:
- Vi phạm quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ;
- Xâm hại lợi ích quốc gia trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối
ngoại;
- Sử dụng văn bằng, chứng chỉ, giấy chứng nhận, xác nhận giả hoặc
không hợp pháp.
Từ các phân tích trên, có thể thấy, việc kỷ luật viên chức từ
01/7/2020 sẽ bị “siết” hơn rất nhiều so với các quy định hiện nay nhằm mục đích
không bỏ lọt các hành vi vi phạm, xử lý đúng người, đúng vi phạm.
7/ Viên chức đang bị
kỷ luật vẫn được cho nghỉ hưu
Mặc dù việc kỷ luật viên chức được quy định chặt chẽ hơn nhưng về
điều kiện nghỉ hưu của viên chức, Luật sửa đổi lại "nới lỏng" hơn so
với hiện nay.
Cụ thể, Luật sửa đổi bổ sung thêm quy định “kỷ luật viên
chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu có hành vi vi phạm trong thời gian công tác trước
ngày 01/7/2020 sẽ được thực hiện theo Luật này”.
Quy định này có thể hiểu rằng, dù viên chức đã nghỉ hưu, nghỉ việc
nhưng sau đó lại phát hiện có vi phạm trong thời gian công tác trước đó thì vẫn
bị kỷ luật. Bởi vậy, khoản 8 Điều 2 Luật sửa đổi đã sửa điều kiện nghỉ hưu của
viên chức theo hướng “mở” hơn:
Viên chức đang trong thời hạn xử lý kỷ luật, đang bị điều tra, truy
tố, xét xử thì không được bổ nhiệm, biệt phái, đào tạo, bồi dưỡng hoặc thôi
việc.
Trong khi trước đó, khoản 3 Điều 56 Luật Viên chức hiện hành lại
quy định viên chức đang trong thời hạn xử lý kỷ luật, đang bị điều tra, truy
tố, xét xử thì không được bổ nhiệm, biệt phái, đào tạo, bồi dưỡng, giải
quyết nghỉ hưu hoặc thôi việc.
Như vậy, từ các quy định trên có thể thấy, dù đang bị kỷ luật, viên
chức vẫn có thể được xem xét giải quyết nghỉ hưu. Sau khi nghỉ hưu, nếu phát
hiện các vi phạm trong thời gian công tác thì vẫn bị kỷ luật theo quy định.
Xem chi tiết Luật số: 52/2019/QH14, ngày
25/11/2019 - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cán bộ, công chức và luật
viên chức (Tại đây)